Đại danh Việt Nam mang từ Gò ở trước
2. Yếu tố đứng sau thuộc nhiều lãnh vực khác nhau.
2.1. Trước hết, đó là từ chỉ người.
Gò Lồilà địa điểm thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, có di chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Chăm . Gò Lồicòn xuất hiện ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Gò Lồi là “gò có người Lồi”, tức người Chăm. Tương tự: muối Lồi là muối Chăm.
Gò Mạnglà địa điểm ở tỉnh Quảng Ngãi. Gò Mạng là nơi chôn cất những người Việt và Chăm chết trong chiến tranh, mưu sinh.
Gò Mọilà núi ở xã Đại An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Đây là cách gọi trước Cách mạng Tháng Tám. Gò Mọi là “gò có đồng bào dân tộc thiểu số sống”.
2.2.Kế đến, là những từ chỉ các công trình xây dựng.
Gò Chùalà địa điểm ở quận 11, thành phố Hồ Chí Minh, có di chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Óc Eo, được khai quật năm 1991. Gò Chùa là “gò có chùa Phụng Sơn” [3].
Gò Đềnlà làng của xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Gọi là Gò Đền vì trên gò có một cái đền của người Chăm.
Gò Kholà đồi ở xã Cát Minh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Gò Kho vì có kho Càn Dương được nhà Tây Sơn xây dựng tại đây [7, 34].
2.3.Tiếp theo là những từ chỉ các con vậttrên địa bàn.
Gò Cônglà địa điểm ở phường Long Thạnh Mỹ, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Gò Côngcũng là thị xã của tỉnh Tiền Giang, diện tích 32,1km 2, dân số 51.200 người (2006), gồm 5 phường và 4 xã. Trước ngày 30 – 4 – 1975, Gò Công là tỉnh, sau chia làm hai huyện là Gò Công Đông và Gò Công Tây. Gò Công Đônglà phần phía đông của tỉnh Gò Công. Gò Công Tâylà phần phía tây của tỉnh Gò Công.
Gò Côngvốn có nghĩa là “gò có nhiều công đậu” trước đây, nên các cụ ngày xưa dịch ra chữ Hán là Khổng Tước khâu(“gò chim công”).
Gò Ốclà địa điểm thuộc xã Xuân Bình, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, có di chỉ khảo cổ học cách nay 5.000 – 4.000 năm. Gò Ốc là “gò có nhiều xác ốc”.
2.4.Mặt khác, từ chỉ các chất liệutrên địa bàn cũng có số lượng đáng kể.
Gò Đenlà địa điểm thuộc huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Gò Đen vì khi đào giếng ở khu vực này, người ta thấy lớp đất đen dày cả mét [8].
Gò Munlà di chỉ cuối thời đại đồng thau, ở xã Việt Tiến, huyện Sông Thao, nay là huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ . Gò Muncòn là địa điểm thuộc xã Hà Giang, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, có di chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Đông Sơn. Gò Mun là “gò có đất màu đen mịn” [1].
Gò Nổilà khu vực nằm giữa hai nhánh của sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam . Đây là“đất học”với nhiều nhân vật nổi tiếng cả nước như Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Trần Cao Vân, Phan Khôi, Phan Thanh, Lê Đình Thám, Hoàng Tuỵ,…Nay thuộc huyện Điện Bàn. Gò Nổicòn là địa điểm thuộc huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh, có di chỉ khảo cổ học. Gò Nổi là do cát bồi tụ [1].
Gò Sắtlà địa điểm ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Gò Sắt vì tại vùng này có mỏ sắt nên nhiều cứt sắt nổi trên mặt đất [4].
2.5.Sau cùng, tên các loại cây cốichiếm số lượng nhiều nhất.
Gò Bônglà địa điểm khảo cổ học thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Gò Bông là “gò đất có nhiều hoa”.
Gò Càlà đồi thấp nằm cạnh phía tây quốc lộ 14B, thuộc xã Hoà Khương, huyện Hoà Vang, tp. Đà Nẵng. Gò Cà vì ở gò này có mọc một loại cà hoang (trái tròn như hòn bi, đắng, không ăn được) [9].
Gò Chailà bến phà vượt sông Vàm Cỏ Đông, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Gò Chai là gòcó nhiều cây chaimọc. Chai là loại cây cho mủ đóng cục, nấu chảy để thắp, đốt.
Gò Dầulà huyện của tỉnh Tây Ninh, diện tích 250,5km 2, dân số 135.300 người (2006), gồm một thị trấn và 8 xã. Gò Dầu vốn có nghĩa là “gò có nhiều cây dầu”.
Gò Dầu Hạvà Gò Dầu Thượng là hai khu vực thuộc huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Gò Dầu Hạ là “gò cây dầu ở phía dưới”, xa biên giới hơn Gò Dầu Thượng [4].
Gò Duốilà địa điểm thuộc xã Thái Bình Trung, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An, có di chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Óc Eo. Gò Duối là “gò có nhiều cây duối”.
Gò Dưalà ấp của phường Tam Bình, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Dưa ở đây là dưa leo, được trồng nhiều nơi này trước kia.
Gò Gănglà làng ở xã Thuận Chính, huyện Phù Cát; nay thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Gò Găng là “gò có nhiều cây găng” - loại “cây bụi, thân và cành có gai, quả tròn màu vàng, thường trồng làm hàng rào”.
Gò Kénlà địa điểm ở xã Hiệp Tân, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Gò Kén là gòđất rộng có mọc nhiều cây kén,một loại cây có lá xanh, trái chín như trái hồng đào [2, 217].
Gò Mônlà quận do phía kháng chiến lập tháng 6 – 1961 để phát triển cách mạng và mở rộng địa bàn hoạt động. Năm 1968, giải thể quận này, chia làm 4 quận nhỏ: Gò Vấp, Đông Môn, Tây Môn, Nam Chi. Gò Môn là tên ghép hai quận GòVấp và Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Môn là cây môn nước [3].
Gò Ơilà rạch ở huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Gò Ơi là “gò có mọc nhiều cây ơi, một loại cây có hạt dùng làm thức uống giải nhiệt, hay mọc trên đất giồng” [6].
Gò Quánhlà địa điểm thuộc xã Hành Nhân, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, có di chỉ khảo cổ học được phát hiện năm 1992, thuộc văn hoá Sa Huỳnh. Gò Quánhcũng là sân bay ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Gò Quánh là “gò có nhiều cây quánh”. Tên cây này chưa được các từ điển ghi nhận [4].
Gò Quaolà huyện của tỉnh Kiên Giang, diện tích 424,3km 2, dân số 134.400 người (2006), gồm một thị trấn và 10 xã. Gò Quao vốn có nghĩa là “gò có nhiều cây quao”. Quao là “giống cây lá có chất nhuộm màu đen” [5].
Gò Saolà vùng đất ở phường Thạnh Lộc, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây, tháng 10 – 1987, ngành khảo cổ học đã đào được hàng trăm rìu đá, bàn mài và hàng trăm mảnh gốm thô. Di chỉ này cách nay độ 3.000 năm. Gò Sao là “gò có mọc nhiều cây sao”.
Gò Ulà kênh ở huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ở tỉnh này, tại huyện Long Hồ có rạch Cây U. Gò U là “gò có nhiều cây u, một loại cây hay mọc nơi thấp ven bờ sông rạch, tên đầy đủ là u vu” [6].
Gò Vấplà quận của thành phố Hồ Chí Minh, diện tích 19,7km 2, dân số 311.000 người (2006), gồm 16 phường, đến cuối năm 2006, thêm 4 phường. Địa danh này đã xuất hiện trước năm 1820, được gọi là quận từ năm 1917. Gò Vấp có âm gốc là Gò Vắp,vừa thuần Việt vừa gốc Khmer. Vắplà tên cây, âm gốc là Kompăp, một loại cây cứng như lim. Gò Vắp là “gò có nhiều cây vắp”.
3.Qua các địa danh đã giới thiệu trên, ta thấy ở Nam Bộ số lượng mang từ Gò ở trước chiếm đa số. Sở dĩ có hiện tượng này vì địa danh Nam Bộ mang tính nguyên sơ, dân dã và ở vùng đất mới này xưa kia vốn là rừng nên có nhiều loại cây. Vì vậy, địa danh Nam Bộ có những nét đặc thù của vùng đất mới.
Tài liệu tham khảo
1.Bùi Thiết, Địa danh văn hóa Việt Nam , HN, Nxb Thanh niên, 1999.
2. Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa, HN, Nxb Thanhniên, 2001.
3.Lê Trung Hoa , Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2003.
4. Lê Trung Hoa, Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam , bản đánh máy, chưa xuất bản.
5. Lê Văn Đức, Việt Nam từ điển, SG, Khai trí, 1970.
6. Nguyễn Tấn Anh, Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long,Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường ĐHKHXH – NV, tp.HCM, 2008.
7. Quách Tấn, Non nước Bình Định, HN, Nxb Thanh niên, 1999.
8. Thạch Phương – Lưu Quang Tuyến (cb), Địa chí Long An, Nxb Long An, NXB KHXH, 1989.
9.Thạch Phương – Nguyễn Trọng Minh (cb), Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, HN, Nxb KHXH, 2005.