Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 13/09/2007 23:55 (GMT+7)

Cừu Phan Rang

1. Xuất xứ

Về phân loại động vật thì cừu thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chãn (Artiodactyla), bộ phụ nhai lại (Ruminantia), họ phụ dê cừu (Capia Rovanae).

Cừu Phan Rang là một giống cừu được du nhập từ hàng trăm năm nay vào nước ta và trước hết là vào Phan Rang. Phan Rang (nay thuộc tỉnh Ninh Thuận) thuộc vùng cực Namcủa Trung bộ Việt Nam . Đây là vùng nắng nóng, nhiệt độ bình quân năm là 27,5 oC. Tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ bình quân là 29,4 0C. Tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng giêng 25 0C, như vậy là ở đây mùa nóng quanh năm và không có mùa lạnh.

Lượng mưa trung bình nói chung là thấp, bình quân của nhiều năm là 717 mm, năm cao nhất cũng chỉ đạt 1300 mm và năm thấp nhất là 290 mm. Ta biết là lượng mưa trung bình ở nước ta vào khoảng 800 mm. Mùa mưa lại tập trung vào 3 tháng tháng 9, 10, 11 với lượng mưa chiếm tới 80% của cả năm.

Độ ẩm không khí là 79,9%, tháng thấp nhất là 73,8%, tháng cao nhất là 85,9%, ánh sáng đặc biệt dồi dào với số giờ nắng trong năm từ 2500-2600 giờ. Mùa khô kéo dài, độ ẩm không khí thấp điều đó chắc chắn là có lợi cho sự sống của con cừu.

 Khí hậu vùng Ninh Thuận

* Nhiệt độ không khí ( oC)

- Bình quân năm 27,5

- Nhiệt độ cao tuyệt đối 36

- Nhiệt độ thấp tuyệt đối 1 4,4

- Tháng có nhiệt độ cao nhất 29,4 (tháng 7)

- Tháng có nhiệt độ thấp nhất 25 (tháng 1)

Nhiệt độ cao, nóng quanh năm, không có mùa lạnh, cây trồng phát triển 4 mùa.

* lượng mưa (mm)

- Lượng mưa trung bình nhiều năm 717

- Năm cao nhất: 1300

- Năm thấp nhất: 290

- Số ngày mưa trong năm bình quân 60 ngày

- Mùa mưa tập trung vào 3 tháng 9, 10, 11 (chiếm 80% lượng mưa cả năm)

* Độ ẩm không khí (%)

- Bình quân 79,9

- Tháng cao nhất 85,9 (tháng 11)

- Tháng khô nhất 73,8

* Ánh sáng

- Số giờ chiếu sáng trong năm 2500-2600 giờ

* Ghi chúkhông có sương muối, thường có gió lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 1 năm sau, không có bão.

2. Phân bố

Vấn đề này đang được tìm hiểu kỹ thêm. thẹo bà con ở đây thì đàn cừu đã có từ hơn 100 năm do người Chà Là (Ấn Độ) mang tới. Cũng có vùng nói là do các giáo sĩ người Pháp mang tới cho giáo dân, do đó kinh qua rất nhiều trôi nổi bà con giáo dân không muốn bỏ con cừu, tượng trưng như quà tặng của Chúa.

Có điều chắc chắn có thể nói là giống cừu này là cừu thịt xuất xứ từ vùng nhiệt đới. Có nhiều khả năng là từ Ấn Độ nơi có khí hậu nóng. Bởi vì sức sống của đàn cừu Phan Rang chứng tỏ tổ tiên chúng chắc rất thích nghi với vùng nắng nóng. Chúng tôi đang khảo sát kỹ thêm về nguồn gốc của đàn cừu ở đây để xem nó mang đặc trưng của giống cừu nào trên thế giới. Có một điều đáng chú ý là độ dài đuôi của giống cừu này không bao giờ vượt quá khuỷu chân. Như vậy nó thuộc loại hình đuôi ngắn - mảnh (Short thin tailed). Theo bản đồ phân bố cừu của C. Dervendra và G B. Meloroy thì giống cừu này thường thấy ở Ấn Độ, Pakistan và một số nước châu Phi. Không phủ nhận được rằng qua bao nhiêu thăng trầm, chịu đựng quen với điều kiện sinh thái đặc biệt của nơi này, con cừu Phan Rang đã rất thích nghi và mang dấu ấn của môi trường sống ở đây và ta có thể xem nó như một con cừu giống của nước ta. Chính từ lý do đó chúng tôi gọi nó là giống cừu Phan Rang.

Phân bô đàn cừu ở tỉnh Ninh thuận

Địa phương

Số cừu  nuôi (con)

Số hộ nuôi cừu

Tri Hải

475

7

Xuân Hải

635

14

Phương Hải

150

4

Lợi Hải

75

1

Nhơn Hải

50

1

Vùn KT đá trắng

200

2

Thị trấn Ninh Sơn

465

4

Sông lấp

265

2

Thị trấn Ninh Phương

475

10

Sông Than

165

1

Văn Lâm

185

5

Từ Tâm

75

2

Dụ Bổn

50

1

3265 con

44 hộ

* Ghi chú:   - vùng người Chàm có 45% tổng đàn cừu

                  - vùng công giáo có 29,09% tổng đàn cừu

                  - vùng đồng bào lương có 25,91% tổng đàn cừu 

3. Đặc điểm sinh học

3.1. Đặc điểm ngoại hình

Cừu Phan Rang có màu trắng (80%), một số ít có màu lông nâu (11% số ít còn lại là lông nâu điểm trắng hoặc trắng điểm nâu hoặc lông nâu đen, một số con có mặt đen hoặc trắng nhưng phần lớn là mặt trắng, có điểm một vệt trắng ở sống mũi và 2 dải đen ở 2 bên má. Toàn thân cừu phủ một lớp lông, lông phần hông nơi dài nhất từ 11 - 12 cm, lông phần lưng nơi ngắn nhất khoảng 8 cm. Lông nhỏ mịn và không xoăn, lông cừu đực khô hơn cừu cái nhưng không rõ rệt như ở dê.

Đầu cổ cừu ngắn, mũi dô, không sừng, không có râu cằm, thân hình trụ, ngực sâu và nở, bụng to gọn, mông nở, 4 chân nhỏ và khô, móng hở, vú nhỏ và treo, núm vú ngắn (2 cm). Cấu tạo con vật thể hiện giống hướng thịt.

Màu sắc cừu

Ngoại hình

(n)

(%)

Lông trắng

80

80.00

Lông nâu

11

11.00

Lông nâu điểm trắng

3

3.00

Lông trắng điểm nâu

4

4.00

Lông đen

2

2.00

 3.2. Tập tính sinh học

Tính cừu hiền lành chăm chỉ, trên đồng bãi cừu di chuyển chậm ăn miệt mài,  gặm sát đất. Cừu ăn nhiều loại thức ăn, nhưng ăn cỏ và cây thấp là chủ yếu (khác với dê thích ăn lá trên cành).

Phản xạ tính biểu hiện rõ, tuy không thể hiện mạnh như dê. Tính bầy đàn cao, chăn thả chung nhưng ít khi bị lạc đàn.

4. Khả năng sản xuất

4.1. Khả năng sinh trưởng

- Cừu sinh trưởng rất nhanh từ sơ sinh đến 1 tháng tuổi (l68.67 g/ngày) sau đó tốc độ sinh trưởng chậm dần (86,66-137,33g/ngày). Tháng thứ hai thường là tháng khủng hoảng vì lượng sữa giảm thấp mà cừu con thì chưa quen ăn nhiều cỏ. Sau đó sức lớn trở lại bình thường.

Khả năng sinh trưởng của cừu trong điều kiện quảng canh như sau: Trọng lượng sơ sinh của cừu là 2,20 kg, lúc 3 tháng tuổi 13,98 kg. Tuổi trưởng thành bình quân con cái nặng 38,96 kg, con đực 42,64 kg.

Chiều đo của cừu trưởng thành (cm)

Chiều đo

Con cái

Con đực

Dài thân

64,4

63,0

Cao vây

60,0

59,5

Cao khum

62,8

62,0

Sâu ngực

25,8

28,0

Rộng ngực

16,6

16,1

Vòng ngực

70,0

78,0

Rộng hông

13,7

14,0

Vòng ống

7,3

6,5

 4.2. Khả năng sinh sản

Cũng như dê, cừu là loại gia súc sớm thành thục về sinh dục. Cừu đực 5 tháng tuổi đã có biểu hiện phối giống, nhưng người ta thường sử dụng lúc 10 tháng tuổi. Cừu cái 6 tháng đã động dục và tuổi phối giống đầu tiên thường vào lúc 9- 10 tháng. Thời gian mang thai khoảng 150 ngày, chu kỳ động dục từ 16- 17 ngày, mùa dộng dục không rõ rệt nhưng vào các tháng mùa xuân mát mẻ thường động dục nhiều và lý lệ thụ thai cao. Theo dõi 120 lứa đẻ ở xã Tân An thì thấy số cừu đẻ 1 con là 91 con chiếm 75,83%, đẻ sinh đôi 21 con chiếm 17,5% và đẻ sinh ba có 8 con chiếm 6,67%. Như vậy cừu đẻ sinh đôi và sinh ba chiếm gần 1/4 (24,l7%) đẻ đơn là 75,83%, tỷ lệ mắn đẻ như vậy là ở  mức trung bình so với các giống cừu thịt khác.

Một số chỉ tiêu sinh sản của cừu

Con đực

Tuổi có phản xạ nhảy

Tháng

5

Tuổi sử dụng phối giống

Tháng

10

Con cái

Tuổi động dục lần đầu

Tháng

6

Tuổi phối giống

Tháng

9-10

Chukỳ động dục

Ngày

16-17

Thời gian mang thai

Ngày

150

Số con/ổ                              1,25 - 0,43 (đơn 75,83%, kép 24,07%)

Khoảng cách lứa đẻ (n=100)

Tháng

8,01?0,82

Hệ số đẻ

Lứa

1,4

Số cừu con/1nái/1 năm

1,68

 4.3. Khả nàng cho da, lông

Lông của cừu thịt Phan Rang chưa được sử dụng có lẽ vì đàn cừu còn quá ít (khoảng 3000 con) và vì cừu thịt ở xứ nóng nên lông không nhiều. Tỷ lệ da thường chiếm 8% trong lượng cơ thể, da cừu mềm, đàn hồi tốt là mặt hàng được ưa chuộng. 

5. Tính trạng đặc biệt

Chịu được khí hậu nóng nhiệt đới là đặc điểm quý của cừu Phan Rang, không những sống được mà nó vẫn tồn tại và phát triển tốt.  Trong lúc các giống cừu nhiệt đới nhập vào nước ta không còn sống sót (cừu Pháp, cừu Trung Quốc, cừu Mông Cổ) thì cừu Phan Rang vẫn tồn tại và phát triển tốt. Chịu đựng với bãi chăn sỏi đá nghèo dinh dưỡng cũng là một đặc điểm quý.

6. Bảo tồn nguồn gen

Qua công tác bảo tồn nguồn gen, đàn cừu được đặc biệt chú ý và phát triển rất nhanh. Từ hơn một ngàn con đến nay đàn cừu đã phát triển lên sáu, bảy ngàn con đem lại lợi ích cho người nông dân Ninh Thuận và các vùng phụ cận. Bảo tồn nguồn gen chủ yếu là qua in-situ. Đang tiến hành giữ vật chất di truyền ADN, tinh dịch qua ex-situ trong phòng thí nghiệm Di truyền phân tử của Viện Chăn nuôi Quốc gia.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.