Có một Hoàng hậu Việt trong vương triều Chămpa
Một trường hợp khác là vào giữa thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Phúc Nguyên có hai công chúa thì một gả cho vua Chăm Pôrômê là công chúa Ngọc Khoa và một gả cho vua Chân Lạp là công chúa Ngọc Vạn.
Khi liên tục bị sức ép từ phía Bắc, vương triều Chămpa dời về miền Panduranga phía nam vương quốc (khu vực Ninh – Bình Thuận ngày nay). Thời kỳ này, xung đột giữa các quốc gia láng giềng tăng cao không có lợi cho đất nước. Để giữ thế hòa hoãn và tạo tiền đề cho mối bang giao hai nước sau này được êm đẹp, chúa Nguyễn đã gả công chúa cho Pô Nít làm thứ phi và sau này là hoàng hậu. Điều đó cũng chứng tỏ uy quyền và sức mạnh của vương quốc Chămpa vào thời kỳ này khiến cho chúa Nguyễn phải dùng đến nghệ thuật ngoại giao êm đẹp, sử cử gọi là ngoại giao “hoa hồng”. Nhờ đó đã củng cố được nền hòa hiếu một thời gian khá dài giữa hai dân tộc Chăm – Việt.
Công chúa gả cho Pô Nít thời kỳ này là con của vị chúa Nguyễn nào, không ai được biết đến. Trong dân gian Chăm cho là con chúa Sãi, nhưng thực ra chúa Sãi chỉ có hai công chúa như đã nói ở trên. Theo chúng tôi có thể con của các vị Hoàng thân trong triều. Mặc dầu chưa chắc chắn nhưng trên thực tế là có thực, ngày sau khi bà mất Hoàng tộc Chăm còn cho tạc cả tượng để thờ bà đặt cạnh tượng vua Pô Nít.
Tất cả những lần vua Đại Việt gả con gái của mình cho vua Chăm chúng ta chỉ biết được qua sử sách, do các vương triều ghi chép cẩn thận và lưu lại trong lịch sử và văn hóa của cả người Việt và người Chăm, mà không có một bằng chứng vật chất nào để lại cụ thể.
Riêng đối với trường hợp công chúa Đại Việt gả cho vua Chăm Pô Nít thì ngược lại, sử sách hầu như không ghi lại, hoặc bị mất mát hoặc vì lý do nào đó. Nên sau này không biết công chúa là con gái của vị chúa nào, nên chúng tôi dự đoán là con của các vị hoàng thân trong triều. Bù lại sau khi trở thành thứ phi và hoàng hậu của vua Pô Nít, bà lại được triều đình vua Chămpa quý mến, coi bà như người thân thiết trong Hoàng tộc và như cả Hoàng hậu của người Chăm chính thống. Sự kiện này có ý nghĩa tương tự sự kiện đầu thế kỷ XIV khi vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chăm Chế Mân.
Về tên tuổi, tư liệu lưu giữ trong quyển Phổ ýcủa họ Đặng và Nguyễn (Một bộ phận người Chăm ở xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình mang họ Đặng và Nguyễn sau sự kiện bà hoàng hậu người Việt mất như đã nêu trên) còn lưu lại từ triều vua Pô Nít, thì bà hoàng hậu người Việt tên là Nguyễn Thị Thương (tên khi mất là Nguyễn Thị Chính). Vì mối bang giao và là nhiệm vụ của Tổ quốc, theo lệnh triều đình Việt, công chúa đã về làm thứ phi cho vua Chăm là Pô Nít (1603 – 1613) lúc này triều đình đóng đô ở vùng Phan Rí (Bắc Bình) ngày nay.
Tài liệu của Pháp do ông H. Parmentier công bố đầu thế kỷ XX, khi đến đền thờ Pô Nít nghiên cứu, ông gọi bà Nguyễn Thị Thường là nữ hoàng thứ nhì theo cách gọi của người Chăm lúc bấy giờ. Kể từ khi chính thức trở thành hoàng hậu trong vương triều Chăm, bà được vua Pô Nít yêu thương và vương triều trọng vọng, bởi uy tín và đóng góp của bà. Do đó khi mất bà được khắc ghi công lao và tạc tượng bằng đá, được lưu giữ bên cạnh vua trong đền thờ. Ngang cấp bậc với bà hoàng hậu Chăm (bà Pô Mưk Chà), cả lúc sống và khi đã qua đời. Điều lý thú và cảm động là luc sinh thời, nhiều lần bà được vua Pô Nít mời đi dự những đám hỏa thiêu các quần thần trong triều và người thân trong Hoàng tộc. Bà cảm thấy rất sợ hãi khi phải chứng kiến cảnh tượng trong đám thiêu người chết. Theo phong tục khi người Chăm theo đạo Bàlamôn (Hindu giáo) chết, phải dùng đến đám hỏa thiêu, lúc đó các thủ tục lo cho đám thiêu vừa kéo dài ngày, vừa tốn kém nhiều của cải. Sau đám thiêu gia đình người quá cố phải trả nợi, không phải chỉ có gia đình đó, mà cả một tộc họ phải giúp trả nợ…
Nhìn thấy những cảnh tượng đó, bà đã trao đổi thẳng thắn với vua Chăm Pô Nít là việc gì, phong tục gì của vương triều Chămpa bà đều theo được hết, kể cả những người hầu cận bà đưa từ Đại Việt qua. Riêng một việc khác mà bà xin vua là sau khi bà mất sẽ được chôn như phong tục của người Việt mà không bị hỏa táng, kể cả con cái của bà và những người Việt theo bà về Chăm. Do quá yêu thương bà, một phần sợ uy lực của cúa Nguyễn lúc đó. Vua Chăm Pô Nít đã phá lệ triều đình và ước nguyện đó của bà đã được thỏa mãn. Nhà vua và triều đình đã thống nhất và lệnh cho dòng tộc thực hiện. Hơn nữa rút kinh nghiệm của gần 4 thế kỷ trước, khi vua Chế Mân mất, triều đình làm đám hỏa thiêu và định hỏa thiêu luôn công chúa Huyền Trân. Nhưng sau đó nhờ sự khôn ngoan của người Việt, công chúa Huyền Trân được cứu thoát đưa về nước mà không bị hỏa thiêu cùng nhà vua.
Khi mất, bà được chôn theo phong tục của người Việt, kể cả những người con và những người thân thiết của bà. Từ đó về sau, con cháu của bà và những người Chăm thân cận khi chết được chôn mà không phải dùng đến đám hỏa thiêu. Không những thế, về sau một bộ phận những người Chăm trong dòng tộc hậu duệ triều đình Pô Nít cũng phải thực hiện lệnh của vua Chăm Pô Nít và triều đình.
Ngày nay, trong dòng tộc vua Pô Nít có hai dòng chính thống, một dòng theo hoàng hậu người Chăm (bà Pô Mưk Chà) thì khi mất được hoản thiêu theo phong tục tập quán của người Chăm. Còn một dòng khác theo hoàng hậu người việt (bà Nguyễn Thị Thương) khi mất được chôn theo phong tục tập quán của người Việt.
Từ thế kỷ XVII đến nay, những người thuộc họ Đặng và họ Nguyễn được gọi chung một tộc là tộc Đặng và Nguyễn. Những người này là người Chăm chính thống, hằng ngày trong cách sinh hoạt thì theo phong tục tập quán của người Chăm. Tuy nhiên, có một số phong tục tập quán khác lại theo phong tục tập quán của người Việt. Trong đó quan trọng nhất phải kể đến là phong tục chôn cất, mở cửa mả, lập bàn thờ, nhang đèn, văn tế đến cúng bái…
Theo quy định chung, người Chăm theo dòng bà hoàng hậu người Việt, khi sống dù là mang họ gì đi nữa, nhưng khi chết đi đều được đổi thành họ Nguyễn, là họ của bà Nguyễn Thị Thương. Ví dụ như ông A khi sống là họ Đặng (Đặng Văn A hay Lâm Văn A), đến khi chết bắt buộc đổi thành họ Nguyễn (Nguyễn Văn A). Còn những người họ Nguyễn khi sống, khi chết vẫn là họ Nguyễn. Có những người khác như họ Trần, Lê, Lâm… khi chết vẫn đổi thành họ Nguyễn. Do đó người Chăm trong dòng tộc thường nói về họ là “sinh Đặng, tử Nguyễn”.
Đây là một hệ quả tất yếu và sâu sắc nhất trong tiến trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa người Việt với người Chăm trong lịch sử hàng trăm năm qua. Và chưa từng có một trường hợp nào ở trong lịch sử qua các thời kỳ của Việt Nam và các dân tộc khác như trường hợp của người Chăm ở Phan Hiệp, Bắc Bình.
![]() |
Vua |
Theo quy định từ lâu đời, cứ 7 năm tộc họ Đặng và Nguyễn phải tổ chức lễ hội một lần gọi là lễ tộc họ. Tộc họ Đặng và Nguyễn của người Chăm có một quyển Phổ ýcó giá trị như một cuốn Gia phảcủa dòng tộc. Nội dung của quyển Phổ ýghi chép nhiều vấn đề quan trọng về phong tục tập quán, lễ nghi liên quan đến dòng tộc. Trong đó việc cúng tế theo phong tục Việt có từ năm 1609, tức là lúc bà hoàng hậu người Việt Nguyễn Thị Thương còn sống. Nghi lễ này kéo dài 2 ngày để tưởng nhớ công ơn của bà Hoàng hậu người Việt cũng như ông bà tổ tiên và những người đã khuất theo phong tục tập quán của người Việt. Những ngày lễ này thường được quy định tổ chức vào ngày rằm và ngày 16 tháng giêng của năm Tỵ và năm Hợi. Chúng tôi hỏi ông Đặng Văn Lẽo tộc trưởng ở đây, vì sao có quy định như vậy và xuất phát từ đâu. Được trả lời là quy định này có từ lâu đời, theo lệnh của vua Chăm Pô Nít. Đặc biệt kể từ khi bà hoàng hậu người Việt mất thì việc này trở nên quan trọng hơn đối với những người trong dòng tộc.
Cũng do quy định 7 năm mới được mở quyển Phổ ýra một lần, nên trong 7 năm đó, dù trong tộc có một hay nhiều người chết, thì việc ghi chép chỉ thực hiện bên ngoài. Chỉ đến kỳ lễ hội mở lại, lúc này hộ tên người chết mới thực sự được ghi chép vào cùng sổ sách với tổ tiên ông bà.
Trước đây, việc ghi chép tên người mất vào Phổ ý thường do một người trong tộc biết chữ Hán thực hiện. Đến năm 1970, thì chấm dứt vì không còn ai biết chữ Hán. Từ đó người Chăm trong tộc họ Đặng – Nguyễn phải ghi chép bằng chữ Quốc ngữ.
Cụ thể như năm Đinh Hợi (2007) lễ hội được tổ chức vào ngày rằm và 16 tháng giêng, gồm có các lễ tục như sau: Lễ thứ nhất là lễ trình báo tại đền thờ Pô Nít nơi thờ tượng vua Chăm Pô Nít và tượng bà hoàng hậu Nguyễn Thị Chính, sau đó là tại nhà tộc ở thôn Bình Hiếu; lễ thứ hai là lễ tế heo sống và phải là heo trắng (phong tục của người Chăm không hề có lễ thức này); lễ thứ ba là lễ cúng các vị thần linh và những người đã khuất.
Trong tất cả các nghi lễ này, mọi lễ vật, thức ăn, đồ uống, trang phục, cách vái lạy, nhang đèn, đặt bàn thờ trong nhà (trong lúc người Chăm không có bàn thờ) đều theo đúng quy định của phong tục tập quán người Việt.
Lần đầu tiên chúng tôi thấy một bộ phận người Chăm cúng tế tổ tiên giống như phong tục của người Việt. Thậm chí còn bài bản hơn một bộ phận người Việt, khi thiếu sự hiểu biết về phong tục tập quán của tổ tiên mình. Ban tế lễ đều phải mặc áo dài khăn đóng (người dân địa phương gọi là áo rộng), những người khác mặc áo bà ba hoặc là áo quần bình thường như của người Việt. Trong lễ nghi này tuyệt đối không được mặc trang phục của người Chăm. Trong Ban tế lễ bắt buộc phải mặc áo dài khăn đóng, người xướng tế phải mặc áo màu vàng. Còn ban nhạc thì mời của người Việt với những nhạc cụ của người Việt. Các bàn thờ được dựng lên, ở đây trên các bàn thờ đều có lư nhang và cầu khấn (khác với ngày thường phong tục của người Chăm không thắp nhang, không lập bàn thờ trong nhà). Các thức ăn, đồ uống khác cũng được nấu nướng và chế biến theo cách thức của người Việt.
Có thể nói rằng, đây là một phong tục tập quán quý, nội dung nói đến tình đoàn kết sâu sắc của hai dân tộc Chăm – Việt trong lịch sử, biểu hiện này ngày nay còn cho thấy trong văn hóa của dân tộc Chăm ở từng nơi, từng vùng chứa đựng những giá trị chung của văn hóa Việt. Đó là một thứ di sản cần được bảo lưu và gìn giữ như một tài sản của nhân dân địa phương, mà chúng ta, trước hết là những nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cần phải tuyên truyền để mọi người khác biết thêm giá trị của những phong tục tập quán và lễ nghi này, và cần phải bảo lưu như nó đã từng có trong lịch sử.