Cơ chế cứng nhắc, khó đưa nghiên cứu vào cuộc sống
PV: Ông có ý kiến gì về việc mới đây, Bộ Khoa học - Công nghệ đã trả lại Ngân sách 125 tỷ đồng kinh phí nghiên cứu khoa học. Đó có phải là một việc làm đáng biểu dương, trong khi nhiều nhà khoa học lại kêu thiếu tiền nghiên cứu?
TS Trần Việt Hùng: - Tôi hoan nghênh Bộ KH-CN đã trả lại Ngân sách 125 tỷ đồng đầu tư cho KH-CN. Tuy nhiên, qua sự kiện này, chúng ta - từ nhà quản lý đến người làm KH-CN - cần phải tự hỏi vì sao đất nước đang trong giai đoạn CNH, HĐH mà không có đủ đề tài hoặc có ít đề tài đến mức mà sự đầu tư vốn đã rất hạn hẹp lại không thể tiêu hết được?
Tôi nghĩ, đúng là hiện nay, lực lượng KH-CN của Việt Nam còn đang rất nhỏ, thế nhưng trong thời đại hội nhập, lực lượng và sức mạnh của chúng ta không thể chỉ tính có nội lực. Chúng ta không thể tự làm lấy tất cả mà hoàn toàn có thể kết hợp với các tổ chức KH-CN và chuyên gia nước ngoài để giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội đang đặt ra. Trong chương trình KH-CN chế tạo máy cấp Nhà nước đã có những đề tài mà nhóm nghiên cứu trong nước đã kết hợp với chuyên gia nước ngoài làm và thành công tốt đẹp.
Vì vậy, ở đây mấu chốt là phải giải quyết bài toán tuyển chọn, xây dựng đề tài KH-CN thế nào và bài toán cơ chế tài chính.
Tôi xin nói về cơ chế tài chính: ví dụ, chủ trương của Đảng và Nhà nước là phải đưa nhanh kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất, làm sao cho kết quả nghiên cứu phải đi vào sản xuất càng nhanh càng tốt. Nhưng hiện nay, cơ chế đầu tư của doanh nghiệp và cơ chế giải ngân nguồn vốn ngân sách dành cho KH-CN lại không song hành với nhau.
Nhà đầu tư phải tiến hành đầu tư ngay sau khi dự án được duyệt , nhưng phía quản lý KH-CN lại duyệt đề tài KH-CN theo năm kế hoạch: Cứ mỗi năm xét một lần! Điều đó có nghĩa, nếu trượt năm này thì không có cách nào bổ sung thêm vào kế hoạch tài chính năm đó. Đương nhiên, đề tài sẽ bị trì hoãn ít nhất 1 năm. Như vậy, doanh nghiệp sẽ không thể chờ đợi được, vì họ sẽ mất thời cơ kinh doanh.
- Ông có thể giải thích rõ hơn về sự mâu thuẫn trong cơ chế tài chính?
- Ở đây, có một thực tế, hiện nay, tiền dành cho nghiên cứu KH-CN thuộc nguồn vốn ngân sách nên phải được Quốc hội phê duyệt, mà Quốc hội một năm chỉ xem xét, phê duyệt một lần. Thế nên, những đề tài, dự án KH-CN bổ sung giữa chừng là gần như không thể. Vậy tại sao chúng ta không có cách nghĩ khác? Thí dụ, chúng ta có thể lập ra Quỹ hỗ trợ nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp hoặc Quỹ hỗ trợ hoạt động KH-CN. Hằng năm, nhà nước sẽ đưa một phần kinh phí dành cho KHCN vào Quỹ đó để các chương trình KH-CN trọng điểm có thể hoạt động suốt năm. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất, đầu tư của các doanh nghiệp.
Một vấn đề nữa mà tôi kiến nghị là nên có các đề án KH-CN dài hạn không phải chỉ từ 2 - 3 năm mà dài hơi hơn và có mục tiêu cụ thể. Nhà nước phải là người đặt hàng lớn nhất. Ví dụ, đặt hàng nghiên cứu công nghệ chế tạo tàu 100.000 tấn, thì ngoài vỏ tàu, các bộ phận khác của tàu sẽ được nội địa hóa như thế nào, bằng công nghệ nào. Tôi nghĩ, đến lúc đó, con số 125 tỷ đồng không phải là cái gì quá lớn so với nhu cầu nghiên cứu KH-CN đặt ra.
- Rõ ràng, đã có sự cứng nhắc trong việc chi trả cho hoạt động nghiên cứu KH-CN, thưa ông?
- Tôi nghĩ như vậy. Cơ chế này không thực tế, nhất là không phù hợp với hoạt động của các doanh nghiệp.
- Theo ông, con số 125 tỷ đồng có thể giải quyết được bao nhiêu đề tài trong tổng số nhiệm vụ mà Nhà nước đặt hàng?

- Không thể tính bình quân đề tài bao nhiêu tiền mà phụ thuộc vào độ lớn và độ phức tạp của đề tài KH-CN. Theo quan điểm của tôi, nếu thấy đề tài có tính thiết thực, phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước thì phải đầu tư cho đủ, đến ngưỡng. Có nhiều đề tài do chưa được đầu tư đến ngưỡng hoặc bị cắt đoạn nên không có hiệu quả khả quan hoặc chậm áp dung được vào thực tế sản xuất , kinh doanh. 






