CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP
I. NHỮNG BẤT CẬP VỀ CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN NAY
Theo dự thảo Tờ trình Chính phủ của Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH&CN), “Trong quá trình thực hiện đường lối Đổi mới hơn 25 năm qua, nền KH&CN của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đồng thời còn bộc lộ một số yếu kém. Công tác tổ chức, quản lý nhà nước về KH&CN đổi mới chậm; đầu tư cho KH&CN từ ngân sách nhà nước còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả; xã hội hóa hoạt động KH&CN chưa cao, nhất là đầu tư từ doanh nghiệp còn rất hạn chế [...]. Tuyệt đại đa số các tổ chức KH&CN, các nhà khoa học đều cho rằng vướng mắc lớn nhất, điểm tắc nghẽn chủ yếu trong hoạt động KH&CN hiện nay chính là cơ chế tài chính. Cơ chế tài chính hiện hành trong hoạt động KH&CN còn nặng tính bao cấp, không phù hợp với đặc thù và không đáp ứng yêu cầu tiến độ của hoạt động KH&CN, không tạo điều kiện cho cơ quan quản lý Nhà nước về KH&CN bảo đảm sử dụng đúng mục đích và hiệu quả nguồn kinh phí của Nhà nước cấp cho KH&CN”.
Nhận định của Bộ KH&CN là hoàn toàn chính xác. Riêng về chính sách, cơ chế tài chính trong KH&CN và những hoạt động liên quan đến việc thực hiện chính sách, cơ chế đó, có thể tổng kết ba hạn chế cơ bản như sau:
1. Đầu tư cho KH&CN chưa tương xứng với vị trí quốc sách hàng đầu của lĩnh vực này. Ngân sách nhà nước chỉ dành cho KH&CN được 2% tổng chi hằng năm và trong tình hình tài chính đất nước hiện nay chắc khó có thể tăng thêm nữa. Tỷ lệ ngân sách cho KH&CN thấp như vậy nhưng không phải tỉnh thành nào cũng chi đủ. Theo Báo cáo bổ sung của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa uỷ quyền Chính phủ ký trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XII thì 27 tỉnh thành, trong đó có cả 5 thành phố trực thuộc Trung ương, chi không đủ chỉ tiêu kinh phí cho KH&CN đã được Thủ tướng Chính phủ giao. Có thành phố không chi đồng nào cho hoạt động này. Trong khi đó, đầu tư từ các nguồn lực xã hội cho KH&CN gần như không đáng kể. Các doanh nghiệp chủ yếu mua công nghệ, thiết bị của nước ngoài; không hiếm trường hợp mua công nghệ lạc hậu, thiết bị đã qua sử dụng để kiếm lời nhờ chênh lệch giá.
2. Việc đề xuất, phê duyệt, giao nhiệm vụ nghiên cứu và nghiệm thu, ứng dụng kết quả nghiên cứu tuy đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn chưa thoát khỏi cơ chế bao cấp, do đó tính hiệu quả của hoạt động KH&CN nhìn chung là thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Theo thống kê của Bộ KH&CN, trong 5 năm 2006 - 2010 cả nước chỉ có khoảng 200 bằng sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp tại Cục Sở hữu trí tuệ.(1) Còn theo các tác giả Lê Văn Út và Thái Lâm Toàn thì từ năm 2006 đến 2010, Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế; riêng năm 2011, nước ta không có bằng sáng chế nào được đăng ký tại đây. Trong khi đó, Nhật Bản (với dân số 126,9 triệu người) là nước đứng đầu với 46139 bằng sáng chế, kế đến là Hàn Quốc (48,9 triệu dân) với 12262 bằng sáng chế. Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore (4,8 triệu dân) có 647 bằng sáng chế. Đứng thứ hai là Malaysia (27,9 triệu dân) với 161 bằng sáng chế. Thái Lan (68,1 triệu dân) có 53 sáng chế. Còn một nước có số dân và trình độ phát triển tương đương nước ta là Philippines thì có 27 sáng chế (2). Mặc dù không phải kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ của ngành nào cũng được thể hiện thành bằng sáng chế và có những lý do nhất định khiến nhiều người Việt Nam chưa có thói quen đăng ký bằng sáng chế, nhưng số lượng sáng chế được cấp bằng quá “khiêm tốn” như vậy cũng chứng tỏ KH&CN Việt Nam chưa đạt được nhiều thành tựu và cũng chưa được chuẩn bị tốt để hội nhập quốc tế.
3. Cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN nặng tính bao cấp, không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN; kinh phí thường xuyên cấp rất chậm so với yêu cầu về tiến độ nghiên cứu - triển khai; thủ tục thanh toán còn hình thức, cồng kềnh, không tạo điều kiện cho các nhà khoa học tập trung vào công tác chuyên môn và cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN bảo đảm sử dụng nguồn kinh phí đúng mục đích và hiệu quả.
II. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Để khắc phục những bất cập nêu trên, dự thảo Luật KH&CN đã đề ra những giải pháp sau đây:
1. Quy định “Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu trong việc bố trí ngân sách cho KH&CN, bảo đảm tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho KH&CN tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KH&CN.” (khoản 1 Điều 54); “Nguồn vốn đầu tư phát triển KH&CN phải được ghi thành mục riêng trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm.” (khoản 3 Điều 54); “Nhà nước có chính sách, biện pháp khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư cho KH&CN.” (khoản 6 Điều 54).
2. Tái khẳng định cơ chế đề xuất và giao nhiệm vụ KH&CN như đã thực hiện trong những năm gần đây (Điều 25), đồng thời bổ sung nhiều quy định mới so với Luật KH&CN hiện hành, cụ thể là:- Quy định các cơ quan, tổ chức đề xuất nhiệm vụ KH&CN “có trách nhiệm tiếp nhận, tổ chức sử dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ do mình đề xuất đặt hàng sau khi được đánh giá, nghiệm thu” (Điều 26).
- Quy định chính sách “khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức KH&CN liên kết với các doanh nghiệp để xác định và thực hiện nhiệm vụ KH&CN phục vụ yêu cầu đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá” (Điều 32).
- Quy định chính sách “khuyến khích, tạo điều kiện ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào các hoạt động đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp, sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, lập và thực hiện các dự án đầu tư và chương trình phát triển kinh tế - xã hội” (các điều 45, 46, 47, 48, 49, 50).
3. Quy định “Cơ quan kế hoạch và đầu tư, cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm căn cứ vào kế hoạch đầu tư cho phát triển KH&CN đã được phê duyệt và đề xuất của cơ quan quản lý KH&CN trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt việc cân đối, phân bổ và bảo đảm kinh phí đầy đủ, kịp thời phù hợp với đặc thù và tiến độ thực hiện nhiệm vụ KH&CN.” (khoản 2 Điều 54); “Các nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước được thực hiện theo cơ chế khoán chi và được cấp kinh phí chủ yếu thông qua các quỹ trong lĩnh vực KH&CN.” (khoản 5 Điều 54).
Nhìn chung, các quy định trên có nhiều điểm tiến bộ so với quy định hiện hành nhưng vẫn chưa tạo ra được những thay đổi căn bản về cơ chế vận hành để phát triển KH&CN đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Âm hưởng chủ đạo của dự thảo Luật vẫn là ngân sách nhà nước, bộ máy tổ chức và cách thức phân bổ, tài trợ, giải ngân, triển khai đề tài KH&CN hiện hành, chứ chưa “lấy cơ chế kinh tế thị trường làm động lực phát triển KH&CN” như định hướng nêu trong dự thảo Tờ trình Chính phủ. Có thể thấy điều này qua những phân tích sau:
1. Trước hết, dự thảo Luật chưa nêu được giải pháp huy động các nguồn lực xã hội để phát triển KH&CN. Kinh phí hoạt động của các quỹ quốc gia trong lĩnh vực phát triển KH&CN như quỹ phát triển KH&CN, quỹ đổi mới công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao vẫn là “vốn được cấp một lần ban đầu, vốn bổ sung được cấp tiếp hằng năm từ ngân sách nhà nước dành cho KH&CN” (khoản 4 Điều 57). Dự thảo có nói đến nguồn vốn từ “các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của các tổ chức, cá nhân” và “các nguồn khác” nhưng không có quy định nào để huy động những nguồn vốn này. Các quy định về khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư cho KH&CN, khuyến khích liên kết giữa các tổ chức KH&CN với các doanh nghiệp còn chung chung, xem ra rất khó thành hiện thực. Theo quy định tại khoản 2 Điều 58, “máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được và công nghệ trong nước chưa tạo ra được” vẫn không phải chịu thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng. Quy định này tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ, thiết bị từ nước ngoài như từ trước đến nay, chứ không quan tâm đầu tư nghiên cứu hoặc hướng đến thị trường KH&CN trong nước. Muốn tháo gỡ bế tắc về huy động vốn cho KH&CN, cần có những quy định cụ thể trong Luật KH&CN về chính sách ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân góp vốn hoặc hiến tặng tài sản cho hoạt động KH&CN (ví dụ, góp vốn cho các quỹ KH&CN được đảm bảo giá trị vốn và tính lãi suất như lãi suất huy động của ngân hàng; hiến tặng tài sản có giá trị cao hoặc góp vốn nhiều được khen thưởng). Để khuyến khích người dân đóng góp tiền của cho các hoạt động KH&CN, giáo dục và đào tạo, cũng cần đổi mới quy định trong các luật khác về chính sách thuế đối với tài sản, tài sản thừa kế như quy định của luật pháp một số nước phát triển hiện nay (ví dụ, tài sản hoặc tài sản thừa kế vượt quá mức quy định phải nộp thuế cao). Đồng thời, cần xem xét lại chính sách miễn thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với công nghệ, thiết bị nhập khẩu để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ trong nước.
2. Các quy định trong dự thảo Luật KH&CN về đề xuất, phê duyệt, giao nhiệm vụ nghiên cứu và nghiệm thu, ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa bảo đảm “gắn nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với giáo dục và đào tạo, với hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường khoa học và công nghệ” như quan điểm nêu trong dự thảo Tờ trình Chính phủ. Để giải quyết vướng mắc này, Luật cần quy định theo hướng sau:
2.1. Cho phép các doanh nghiệp được đề xuất nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước với Bộ KH&CN, các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Điều 25 của dự thảo Luật quy định đối tượng được đề xuất nhiệm vụ KH&CN là cơ quan, tổ chức, cá nhân nhưng lại bỏ qua doanh nghiệp - đối tượng rất cần sự hỗ trợ của các nhà khoa học. Có lẽ Ban soạn thảo Luật cho rằng doanh nghiệp không liên quan đến việc sử dụng ngân sách nhà nước dành cho KH&CN. Tuy nhiên, nên thấy rằng những đề xuất của doanh nghiệp thường rất thiết thực do họ có kinh nghiệm thực tế sản xuất, kinh doanh, có những vướng mắc thực sự cần giải quyết. Với tư cách là đơn vị đặt hàng, doanh nghiệp có thể cam kết đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí, tuỳ trường hợp. Nếu nhiệm vụ KH&CN mà doanh nghiệp đề xuất có ý nghĩa đối với một ngành sản xuất, kinh doanh nói chung, ngân sách nhà nước có thể hoàn toàn chi trả. Để doanh nghiệp đề xuất nhiệm vụ KH&CN cũng là một biện pháp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu hoặc hướng đến thị trường KH&CN trong nước và thực hiện chủ trương liên kết giữa doanh nghiệp với nhà khoa học.
2.2. Quy định các tổ chức đề xuất nhiệm vụ KH&CN có trách nhiệm nghiệm thu hoặc tham gia nghiệm thu và tiếp nhận, tổ chức sử dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ do mình đề xuất đặt hàng sau khi được đánh giá, nghiệm thu. Trong trường hợp nhiệm vụ KH&CN do cá nhân đề xuất thì trước khi phê duyệt nhiệm vụ, cơ quan quản lý nhà nước cần xác định được tổ chức sẽ sử dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ sau khi được đánh giá, nghiệm thu.
2.3. Quy định rõ mối quan hệ giữa Bộ KH&CN với các quỹ quốc gia trong lĩnh vực KH&CN; trình tự, thủ tục xác định nhiệm vụ KH&CN và việc tổ chức đánh giá, nghiệm thu, sử dụng kết quả nghiên cứu, thu hồi, phát triển vốn ở các quỹ này để đảm bảo hiệu quả hoạt động và sự phát triển lâu dài của các quỹ. 3. Để giải quyết vướng mắc về phân bổ kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN hiện nay, dự thảo Luật cần bổ sung quy định cấm sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt động KH&CN vào mục đích khác. Hà Nội, ngày 5/7/2012
* GS.TS, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Giáo dục, Thanh thiếu niên của Quốc hội.(1) Báo điện tử Hà Nội Mới, ngày 18/11/2010.(2) Báo điện tử VietNamNet, ngày 3/7/2012.








