Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 30/08/2010 18:13 (GMT+7)

Chính sách tái chế chất thải của Hàn Quốc

I. Phương hướng chính sách tái chế chất thải

1.1 Phương hướng cơ bản

Nhằm giải quyết vấn đề chất thải, việc giảm bớt bản thân sự phát sinh chất thải và tái chế tối đa lượng chất thải buộc phải phát sinh rất quan trọng. Để đạt được điều đó, chính phủ đóng vai trò chủ lực trong việc hoạch định chính sách giảm thiểu chất thải và thêm vào đó là xác lập hệ thống tái chế, chú trọng đến việc sử dụng tuần hoàn các tài nguyên. Các chính sách tiêu biểu như chế độ "tái chế- trách nhiệm của nhà sản xuất" yêu cầu các nhà sản xuất giảm bớt sự phát sinh chất thải ở các giai đoạn sản xuất sản phẩm và cải tiến bằng các cơ cấu, chất lượng vật liệu có thể tái chế dễ dàng rồi sau khi sử dụng, thu hồi và tái chế tối đa những sản phẩm bị loại bỏ và bao bì đóng gói; thiết lập hệ thống phân loại, thu gom nhằm cung cấp một cách ổn định các tài nguyên có khả năng tái chế; tăng cường cơ sở hạ tầng tái chế phù hợp với điều kiện của khu vực; phát triển kỹ thuật liên quan và thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm tái chế, đang được xúc tiến rất mạnh mẽ.

1.2 Vấn đề xúc tiến trọng điểm

1.2.1. Chế độ "tái chế - trách nhiệm nhà sản xuất"

Từ sau khi thi hành chế độ tiền đặt cọc chất thải và đánh thuế trên tổng lượng rác thải, số lượng giảm đi và tỉ lệ tái chế chất thải dần dần đã và đang tăng lên nhưng các nhà sản xuất, những người có vị trí thuận lợi nhất trong việc giảm bớt và tái chế chất thải lại không thể hiện vài trò tích cực trong vấn đề này, đã cho thấy điểm hạn chế trong việc nâng cao tỷ lệ tái chế.

Trước thực trạng này, chính phủ đã sửa đổi "Luật về tiết kiệm tài nguyên và thúc đẩy tái chế", từ ngày 1 tháng 1 năm 2003, đưa vào thi hành Chế độ "tái chế - trách nhiệm của nhà sản xuất" (Extended Producer Responsibility) đối với bao bì đóng gói và các sản phẩm như túi giấy, chai thủy tinh, hộp kim loại, chất liệu đóng gói bằng nhựa tổng hợp, các loại giấy, lốp, dầu bôi trơn, sản phẩm hàng điện tử. Vào năm 2004, đã bổ sung các chất liệu đóng gói là các loại phim, huỳnh quang vào danh mục các đối tượng áp dụng của chế độ trên; năm 2005, bổ sung thêm điện thoại di động và thiết bị nghe nhìn; từ năm 2006, bổ sung thêm các loại lọ thủy tinh đựng mỹ phẩm, máy fax, máy photocopy, máy in và từ năm 2008, bằng việc bổ sung thêm các loại pin niken hydro và pin mangan, pin alkali, kế hoạch sẽ thực hiện mở rộng từng bước phạm vi áp dụng của chế độ này.

1.2.2. Tăng cường hiệu quả của hệ thống thu gom và phân loại chất thải có khả năng tái chế.

Phải thúc đẩy việc phân loại và giữ lại các sản phẩm tái chế thì mới có khả năng đảm bảo về tài nguyên tái chế và cắt giảm chất thải ở các nơi tập kết rác và tiêu hủy chất thải. Theo đó, để nhân dân có thể dễ dàng hiểu phương pháp xả rác và danh mục các đối tượng phân loại rác và có thể thực hiện được, cần phải lập kế hoạch phát triển, hoàn thiện hệ thống phân loại các sản phẩm tái chế và liên tục thúc đẩy việc trang bị hệ thống thu gom, phân loại, bổ sung các trang thiết bị thu gom, phân loại. Liên quan đến việc phân loại sản phẩm tái chế và thu gom, Bộ Môi trường Hàn Quốc, năm 2002, đã quy định hướng dẫn (nghị định về tái thiết môi trường) về các việc như thu gom, phân loại các tài nguyên có khả năng tái chế và phân bổ tới các cơ quan quản lý địa phương, hàng năm lại sửa đổi và hoàn thiện dần các nội dung đó.

1.2.3. Tiên tiến hóa cơ cấu lưu thông các sản phẩm tái chế

Hiện nay, việc tiêu dùng, cung cấp các sản phẩm tái chế ở đất nước Hàn Quốc nói chung vẫn đang ở tình trạng phụ thuộc vào chức năng của thị trường. Sau khi áp dụng chế độ đánh thuế dựa vào tổng lượng tiêu thụ, các sản phẩm tái chế tăng lên và đi kèm với sự hạ giá và hiện tượng tồn đọng trở nên trầm trọng là kế hoạch đảm bảo cơ sở yêu cầu ổn định và sự ổn định giá cả. Ngoài ra, tăng cường chức năng thông tin liên quan đến lưu thông sản phẩm tái chế để ổn định dự án phân thị trường tái chế, khám phá rồi công khai hướng chuyển động của các sản phẩm tái chế và đang nỗ lực để nâng cao tính hiệu quả của chế độ biểu thị liên quan đến tái chế.

1.2.4. Tăng cường tính cạnh tranh của ngành công nghiệp tái chế.

Để các sản phẩm tái chế có thể được sử dụng một cách an toàn như nguyên liệu thô của ngành công nghiệp, phải song hành với sự phát triển của doanh nghiệp thu gom và gia công sản phẩm tái chế. Tuy nhiên, có một thực trạng là, do quy mô nhỏ của các doanh nghiệp tái chế như hiện nay nên rất khó khăn trong việc thích ứng với những thay đổi bên ngoài như tuần hoàn thị trường. Ngành công nghiệp tái chế là nền tảng thị trường của một xã hội có khả năng tuần hoàn tài nguyên liên tục nên Chính phủ đang cố gắng nỗ lực để thiết lập và xúc tiến các đối sách hỗ trợ theo từng lĩnh vực nhằm ưu đãi về thuế và hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp tái chế và chỉ đạo kỹ thuật, bổ sung thêm cơ sở hạ tầng phục vụ cho có hiệu quả cho việc thu gom, phân loại sản phẩm tái chế, giảm thiểu các vấn đề về mặt bằng của các doanh nghiệp tái chế để nâng cao tính cạnh tranh của ngành công nghiệp tái chế.

1.2.5. Phổ biến cơ sở tiêu dùng sản phẩm tái sử dụng và nhận thức về tái chế

Các sản phẩm tái chế phải được tiêu thụ một cách thuận lợi thì toàn bộ quá trình tái chế như thu gom, phân loại, sản xuất sản phẩm tái chế mới có thể vận hành một cách thuận lợi. Theo đó, có thể tích cực xúc tiến như tăng cường việc mua, sử dụng các sản phẩm tái chế của các cơ quan hành chính công, mở rộng các cửa hàng bán sản phẩm tái chế, tăng cường chế độ chứng nhận chất lượng sản phẩm tái sử dụng, thúc đẩy mua qua cửa hàng phân phối sản phẩm tái chế và nâng cao nhận thức về sản phẩm tái chế. Đặc biệt, từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, sau khi Luật thúc đẩy mua các sản phẩm thân thiện với môi trường được thi hành, việc mua các sản phẩm thân thiện với môi trường của các cơ quan hành chính công đang ngày càng được mở rộng, như thành tích mua các sản phẩm tái chế của các cơ quan hành chính công thông qua hệ thống phân phối điện tử tổng hợp quốc gia của Tổng cục phân phối.

II. Hiện trạng tái chế chất thải

2.1. Giấy vụn

Trong các gia đình bình thường, trong số các loại chất thải được xả ra, các loại giấy vụn như bìa cứng, giấy báo chiếm chủ yếu khi phân loại, thu gom, nhờ việc áp đặt chế độ phân loại, thu gom dựa trên đánh thuế trên tổng số chất thải mà lượng thu hồi hàng năm đang tăng lên. Cùng với số lượng thu hồi tăng lên này là tỉ lệ sử dụng giấy vụn trong nước tại các doanh nghiệp sản xuất giấy hàng năm cũng có xu thế tăng lên.

2.2. Sắt vụn

Năm 2006, tổng số lượng sắt vụn sử dụng là 24.268 nghìn tấn, trong số đó 18.490 nghìn tấn (chiếm 76,2%) được cung cấp từ trong nước và 5.778 nghìn tấn (chiếm 23,8%) được nhập khẩu. Và tỉ lệ sử dụng sắt vụn trong nước năm 2006 chiếm 38,3% so với lượng sử dụng vật liệu kim loại, và đã được giảm ít nhiều so với năm 2005.

2.3. Thủy tinh phế liệu

           Tuy tỷ lệ sử dụng các thủy tinh phế liệu như chai thủy tinh phế liệu, tấm kính phế liệu, đã có xu hướng tăng liên tục nhờ mở rộng việc thu gom, phân loại các chai thủy tinh phế liệu, phát triển kỹ thuật tái sử dụng thủy tinh phế liệu, nhưng vào năm 2006, số lượng thủy tinh phế liệu sử dụng vẫn là 531 nghìn tấn, so với con số 567 nghìn tấn của năm 2005, thì cũng đã giảm ít nhiều.

2.4. Lốp xe phế liệu

Hiệp hội công nghiệp lốp xe Hàn Quốc, được thành lập với trung tâm là các doanh nghiệp sản xuất lốp xe, thông qua 30 nhà thu gom, thu hồi và cung cấp lốp xe phế liệu cho các doanh nghiệp tái chế. Năm 2006 đã thu hồi và tái chế 19.500 chiếc lốp, chiếm 82,3% trong tổng số lượng lốp xe phát sinh là 23.689 chiếc.

2.5. Dầu bôi trơn phế thải

Năm 2006, đã phát sinh 224.194 tấn dầu bôi trơn và trong số đó, đã thu hồi, tái chế 65% là 146.499 tấn.

III. Áp dụng, thi hành chế độ "tái chế-trách nhiệm nhà sản xuất"

3.1. Sơ lược về chế độ "tái chế - trách nhiệm nhà sản xuất"

Trong vòng 30 năm qua, cùng với việc cố gắng xử lý vấn đề rác thải thông qua việc xây dựng nơi tập kết rác và nơi tiêu hủy rác, việc chi tiêu các chi phí môi trường công cộng đang tăng nhanh chóng, vấn đề môi trường phát sinh từ sự gia tăng của nơi tập kết và tiêu hủy rác và sự phản đối của nhân dân, xã hội đối với vấn đề này càng trở nên mạnh mẽ. Theo đó, trong quá trình tái chế của sản phẩm, chế độ "tái chế - trách nhiệm của nhà sản xuất" đã xuất hiện như một đề án nhằm mở rộng hơn bao giờ hết trách nhiệm của nhà sản xuất.

Chế độ tái chế - trách nhiệm của nhà sản xuất là yêu cầu các nhà sản xuất sản phẩm, trong toàn bộ quá trình từ thiết kế, chế tạo, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm và loại bỏ, bằng việc hướng dẫn các hoạt động kinh tế thân thiện với môi trường sẽ thúc đẩy việc tái chế, tái sử dụng, giảm bớt chất thải và với tư cách là chế độ nhằm thiết kế một "hệ thống kinh tế, xã hội tuần hoàn tài nguyên", phần lớn các quốc gia phát triển như Đức, Anh, Pháp, Hungari và Nhật Bản, lãnh thổ Đài Loan, Úc đang áp dụng chế độ này.

Ở Hàn Quốc, nhằm thúc đẩy việc tái chế chất thải, đã cải thiện các vấn đề tồn động của chế độ tiền đặt cọc chất thải được thi hành từ năm 1992 và nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của nhà sản xuất, vào tháng 2 năm 2002 đã sửa đổi toàn diện "Luật pháp về thúc đẩy tái chế và tiết kiệm tài nguyên" và bắt đầu từ tháng 1 năm 2003 đã hủy bỏ chế độ tiền đặt cọc chất thải ban đầu, sau đó đưa vào thi hành chế độ tái chế - trách nhiệm của nhà sản xuất.

3.2. Các bước thi hành chế độ tái chế - trách nhiệm của nhà sản xuất

Các bước thi hành chế độ tái chế - trách nhiệm của nhà sản xuất có thể được chia làm 6 giai đoạn cơ bản, trong đó giai đoạn đầu tiên là Bộ Môi trường lập kế hoạch cơ bản tái sử dụng tài nguyên với đơn vị là 5 năm và quyết định mục tiêu cơ bản như mục tiêu tỉ lệ tái chế phải đạt được về mặt xã hội.

Thứ hai, các tổ chức chính quyền địa phương công bố số lượng thu gom, phân loại và số lượng phát sinh của tài nguyên có khả năng tái chế theo từng khoản mục đối tượng có nghĩa vụ tái chế theo chỉ đạo của Bộ Môi trường.

Thứ ba, Bộ trưởng Bộ Môi trường tính toán, rồi thông qua các cuộc họp với các cơ quan liên quan, sẽ công bố tỉ lệ bắt buộc tái chế theo từng khoản mục với cơ sở là lượng thu gom, phân loại và lượng xuất kho theo từng sản phẩm, vật liệu đóng gói và tùy theo số lượng xuất kho sản phẩm mà số lượng nghĩa vụ sẽ được quyết định đối với từng cá nhân nhà sản xuất có nghĩa vụ tái chế.

Thứ tư, các nhà sản xuất có nghĩa vụ tái chế, phải trình lên Bộ trưởng Bộ Môi trường bản kế hoạch thực hiện số lượng bắt buộc tái chế để được phê duyệt. Thời điểm này, phương pháp thực hiện nghĩa vụ thông qua tổ chức hỗ trợ hay sẽ tái chế thông qua việc ủy thác riêng lẻ, sẽ phải được quyết định một cách cụ thể.

Thứ năm, các nhà sản xuất có nhiệm vụ tái chế phải thực hiện nghĩa vụ tái chế và nộp lại báo cáo kết quả. Cuối cùng, Bộ trưởng Bộ Môi trường sẽ điều tra, xác nhận báo cáo kết quả thực hiện nghĩa vụ tái sử dụng để xem đã thực hiện nghĩa vụ đầy đủ hay chưa; trong trường hợp xác nhận là chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, thì nhà sản xuất phải chịu tiền phạt tương ứng với phần tiêu chuẩn chưa thực hiện.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Lan tỏa thông điệp về sự sẻ chia, đồng cảm và tinh thần đoàn kết quốc tế giữa hai nước Việt Nam - Cuba
(Mặt trận) - Sáng 13/8, tại Hà Nội, ông Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu tại Lễ phát động cấp quốc gia Chương trình vận động ủng hộ nhân dân Cuba với chủ đề “65 năm nghĩa tình Việt Nam - Cuba”.
Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Trung ương Hội ND Việt Nam Lương Quốc Đoàn gặp mặt Khối diễu hành “Nông dân Việt Nam”
(Mặt trận) - Sáng 12/8, tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Gia Lâm - Hà Nội), ông Lương Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã có buổi gặp mặt lực lượng Khối diễu hành "Nông dân Việt Nam" tại đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9.
Tổng hội Y học Việt Nam: 70 năm xây dựng và phát triển
Trải qua 70 năm xây dựng và phát triển, với sứ mệnh vừa kế thừa truyền thống vừa tiếp tục đổi mới phương thức và nội dung hoạt động, Tổng hội Y học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vị trí, vai trò của Tổng hội được củng cố, nâng cao cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển chung của ngành y tế và của đất nước.
Đồng chí Đỗ Văn Chiến: Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy để phục vụ nhân dân tốt hơn, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc hơn
(Mặt trận) - Sáng 11/8, phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã khai mạc trọng thể tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội.
Một trí thức Liên hiệp Hội tỉnh Bình Phước được Đồng Nai giữ lại tránh “chảy máu chất xám” trong sắp xếp bộ máy
Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai vừa có văn bản khẳng định ông Nguyễn Ngọc Vũ - Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bình Phước không thuộc diện giải quyết nghỉ việc theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP.
VUSTA làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST)
Ngày 7/8, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST). Đây là hoạt dộng trong khuôn khổ Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24 của AFEO do VUSTA tổ chức đăng cai.
Vinh danh 20 kỹ sư tiêu biểu tại Hội nghị AFEO năm 2025
Ngày 6/8, tại Đà Nẵng, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị AFEO Midterm 2025 do Liên đoàn các Tổ chức Kỹ sư ASEAN (AFEO) phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, 20 kỹ sư đến từ các đơn vị của Việt Nam đã được vinh danh tại Lễ trao chứng chỉ Kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPE) năm 2025.