Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 15/05/2009 01:09 (GMT+7)

Chính sách sử dụng nhân tài thời Nguyễn

Tuyển dụng, bổ dụng

Dưới thời Nguyễn, các kỳ thi Đình không lấy Trạng nguyên, đặt thêm hạng Phó bảng, đổi Hương cống là Cử nhân, Sinh đồ là Tú tài (từ năm 1829). Từ năm 1841, các trường thi Hương đều phải định trước số ngạch lấy đỗ trong mỗi kỳ thi tuỳ theo tình hình học tập và số người đi thi của các địa phương. Năm 1880, triều đình lại yêu cầu các phủ - tỉnh phải định trước số học trò đủ tiêu chuẩn dự thi nhằm tránh việc số người dự thi Hương quá nhiều. Trong các kỳ thi Hội, nhà nước cho phép các quan lại, giám sinh (chưa đỗ Cử nhân), Huấn đạo, Giáo thụ dự thi. Năm 1835, Minh Mạng định lệ trong kỳ thi Hội, mặc dù các trường thi chung đề nhưng quyển văn của các thí sinh từ Quảng Bình trở vào Nam được chấm riêng với yêu cầu thấp hơn nhằm khuyến khích việc học tập còn hạn chế ở khu vực này. Các vua cũng nhiều lần tự tay ra đề (ngự đề) cho các trường thi Hương, việc phúc hạch sau các kỳ thi được các vua Nguyễn rất quan tâm, trong nhiều trường hợp chính bản thân nhà vua làm việc đó.

Trước khi được bổ dụng vào các chức vị của triều đình, các tân tiến sĩ được vinh quy bái tổ tại quê nhà. Dưới triều Nguyễn, lễ Ân tứ vinh quy được tổ chức ngay từ khoa thi đầu tiên vào thời Minh Mạng (1822) với những quy định về các việc như cấp người, vật dụng mang theo… Nhưng đến thời Tự Đức, những quy định này mới đi vào quy củ. Trong sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ,Nội các triều Nguyễn có ghi: năm 1865 (Tự Đức thứ 18, khoa thi năm Ất Sửu), cấp phu thành hai hạng, người đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ được cấp 2 phu mang cờ biển, 2 phu khiêng võng, 1 phu khuân đồ đạc; những người đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ, Đệ tam giáp tiến sĩ chỉ được cấp 2 phu mang cờ biển, 2 phu khiêng võng. Có khi, triều đình còn lệnh cho các quan địa phương cử 10 đến 20 lính tháp tùng các tiến sĩ về quê quán. Trong lễ này, các tân Tiến sĩ còn được ban cho cờ và biển. Cờ được ban cho từng người, trên có đính chữ “ Sắc tứ…” cùng bậc đỗ mà mỗi tân Tiến sĩ đạt được. Chữ trên cờ của người đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ bằng tơ vàng; chữ trên cờ của người đỗ đệ nhị (tam) giáp tiến sĩ bằng vải. Riêng biển thì không có sự phân biệt, đó là một biển gỗ có cán, màu đỏ, trên khắc chữ Ân tứ vinh quy màu vàng. Khi về đến làng, các tiến sĩ được dân chúng nô nức chào đón, họ ở đây chừng hai tháng theo quy định rồi lại trở về kinh đô chờ triều đình bổ dụng.

Có thể cho rằng, dưới triều Nguyễn, con đường khoa cử rất được đề cao trong việc bổ dụng vào bộ máy quản lý nhà nước. Các vua nhà Nguyễn, đặc biệt là Gia Long, Minh Mạng đã tuyển dụng tất cả các quan lại của mình trong số người có học qua thi cử. Những người qua học hành thi cử tuy số lượng không nhiều nhưng đó là tầng lớp thống trị đất nước. Dễ dàng nhận ra thực tế này qua rất nhiều chi tiết lịch sử. Không chỉ từ thời Minh Mạng, sau khi có khoa thi Hội đầu tiên của triều Nguyễn, mới có việc tuyển dụng, bổ nhiệm, mà dưới thời Gia Long đã áp dụng chế độ này. Năm Gia Long thứ 13 (1814), vua chỉ dụ cho các Hương cống ở 2 trường Quảng Đức và Gia Định được bổ nhiệm vào làm việc ở các viện.

Đối với trường hợp các tân Tiến sĩ, Phó bảng triều Nguyễn sau này, việc bổ dụng có một số thay đổi qua các đời vua, nhất là về mặt phẩm ngạch. Có thể điểm lại điều này qua một số khoa thi. Khoa thi Nhâm Ngọ (1822) thời vua Minh Mạng, người đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩcho hàm Hàn lâm viện tu soạn(tòng lục phẩm); người đỗ Đệ tam đồng tiến sĩcho hàm Hàn lâm viện biên tu(chánh thất phẩm). Khoa thi Kỷ Sửu (1829) thời Minh Mạng, người đỗ Phó bảng đều cho hàm Hàn lâm viện kiểm thảo (tòng thất phẩm). Khoa thi Quý Mão (1843) thời Thiệu Trị, người đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ cho hàm Hàn lâm viện trước tác (chánh lục phẩm). Đến năm 1844 thời Thiệu Trị quy định về việc bổ nhiệm các nhà khoa bảng như sau: Đệ nhị giáp tiến sĩ thì bổ làm Tri phủ; Đệ tam giáp tiến sĩ thì thăng bổ Chủ sự, cho quyền làm tân Tri phủ; Phó bảng thì thăng bổ Tri huyện, cho quyền Đồng tri phủ.

Nhưng đến thời Tự Đức trở đi, việc bổ dụng các phó bảng, tiến sĩ có một số điều chỉnh về phẩm hàm. Đệ nhất giáp tiến sĩ thứ nhất (tương đương trạng nguyên) được bổ Hàn lâm viện Thị độc (chánh ngũ phẩm); Đệ nhất giáp tiến sĩ thứ hai (bảng nhãn) được bổ Hàn lâm viện Thừa chỉ (tòng ngũ phẩm); Đệ nhất giáp tiến sĩ thứ ba (thám hoa) được bổ Hàn lâm viện Trước tác (chánh lục phẩm); Đệ nhị giáp tiến sĩ được bổ Hàn lâm viện Tu soạn (tòng lục phẩm); Đệ tam giáp tiến sĩ được bổ Hàn lâm viện Biên tu (chánh thất phẩm); Phó bảng được bổ Hàn lâm viện Kiểm thảo (tòng thất phẩm). Từ những phẩm này, các tiến sĩ, phó bảng sẽ được bổ nhiệm vào những chức vụ thích ứng (như tri phủ, thự trị phủ, đồng tri phủ, tri huyện…).

Bên cạnh việc bổ dụng những người đỗ tiến sĩ, phó bảng, những đối tượng thi hỏng khác cũng được hưởng chính sách đãi ngộ trong việc bổ dụng quan chức của triều Nguyễn. Sau kì thi Hội, các thí sinh thi hỏng có thể về quê chờ khoa thi tiếp, cũng có thể xin nhập học ở trường Quốc Tử Giám. Các thí sinh về quê thì có thể được bổ vào các chức như Giáo thụ (một chức quan chuyên trách giáo dục ở một phủ), hoặc chức Huấn đạo (một chức quan chuyên trách giáo dục ở một huyện), nhưng chỉ với điều kiện, các chức này ở địa phương mà thí sinh cư trú bị khuyết. Các thí sinh thi trượt và nhập học ở trường Quốc Tử Giám nếu không có nhu cầu thi tiếp thì 3 năm theo học ở đây sẽ được sung đi Hậu bổ ở các tỉnh. Tuy nhiên việc bổ dụng này sẽ căn cứ vào thứ bậc từ kết quả thi Hội của các thí sinh mà cất nhắc theo thứ tự ưu tiên. Ngoài ra, các thí sinh là con quan (ấm sinh) đã được áp dụng chính sách ưu tiên bổ nhiệm nếu họ đỗ tiến sĩ, phó bảng, cử nhân. Trong trường hợp chỉ đỗ được tú tài và theo học ở trường Quốc Tử Giám, nếu thi tiếp các kỳ khác vẫn không đỗ, thì phải đợi đến năm 30 tuổi mới cho ra làm quan. Tất nhiên khi bổ nhiệm, danh sách của họ phải được các quan ở Quốc Tử Giám lập dâng lên, xét duyệt và họ phải trải qua kỳ sát hạch…

Cũng cần phải nói thêm rằng, ngoài những chính sách đãi ngộ đối với các tiến sĩ, nhà Nguyễn còn có lệ khắc tên tuổi, quê quán và một số thông tin về tiền sử khoa cử của các tiến sĩ đỗ chánh bảng (tức tiến sĩ) lên các tấm bia đá và đặt các Văn Miếu. Qua 39 khoa thi Hội của triều Nguyễn, trong số 558 vị khoa bảng (tính từ phó bảng trở lên) có 239 vị đỗ chánh bảng (văn ban) được khắc tên vào 32 tấm bia đá dựng tại Văn Miếu; 10 vị đỗ chánh bảng (võ ban) được khắc tên vào 2 tấm bia đá dựng tại Võ Miếu. Tuy nhiên, với những nguyên nhân lịch sử khác nhau, một số vị tiến sĩ đã bị triều đình đục tên khỏi bia đá, cũng có vị bị triều vua này đục đi nhưng qua triều vua khác được khắc tên trở lại, điển hình nhất là trường hợp của Phan Thanh Giản.

Tất cả những định lệ mang tính đặc ân cùng những chính sách đãi ngộ đối với các tiến sĩ đã minh chứng rằng, việc tổ chức các khoa thi dưới triều Nguyễn không ngoài mục đích tuyển chọn nhân tài trong các tầng lớp nhân dân, thể hiện chủ trương chiêu hiền đãi sĩ trong việc tuyển dụng bộ máy thống trị đất nước tạo nên nguồn động viên, khuyến khích kẻ sĩ tham gia khoa cử. Do đó, vào thời Nguyễn, Việt Nam xuất hiện nhiều nhà khoa bảng với những tên tuổi đã đi vào lịch sử như Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… Họ đã góp phần làm rạng rỡ những trang sử đáng tự hào của dân tộc.

Chính sách giáo dục của nhà Nguyễn trong thế kỷ XIX tuy không tránh khỏi những hạn chế, song có mặt tích cực đáng được tìm hiểu, tiếp nhận có chọn lọc về nhận thức, vai trò, vị trí của giáo dục, về tổ chức học tập, thi cử, xây dựng đội ngũ dạy học. Chế độ giáo dục và khoa cử triều Nguyễn đã tạo nên một tầng lớp sĩ tử tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; hình thành một nhân cách trí thức - những người có đủ năng lực và phẩm chất để cống hiến cho dân tộc trước những biến động và thức thách của thời cuộc.

Kết qua của chính sách giáo dục, thi cở thời nhà Nguyễn

Ngoài trường Quốc Tử Giám ở Kinh đô, một mạng lưới các trường công được đặt dưới quyền cai quản của bộ Lễ được thiết lập ở khắp các tỉnh thành trong nước. Ở các doanh, trấn (sau là tỉnh) đến cấp phủ, đều có quan của triều đình coi về việc học (Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo). Ngoài ra, việc mở các trường tư ở thôn xóm hương ấp rất được khuyến khích. Đây là những nguyên nhân khiến cho việc giáo dục học hành thời Nguyễn rất phát triển. Dưới triều Nguyễn có nhiều trường học danh tiếng ở các địa phương như ở Thanh Hoá có trường Nghi An của Nhữ Bá Sĩ; ở Hà Nội có trường Bái Dương của ông Nghè Ngô Thế Vinh; trường Hồ Đình của Vũ Tông Phan, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm; trường Phương Đình của Nguyễn Văn Siêu và còn rất nhiều trường và những thày dạy học nổi tiếng khác trong cả nước.

Năm Đinh Mão (1807), vua Gia Long cho mở khoa thi Hương đầu tiên, phép thi phỏng theo phép thi cử đời Lê. Từ đó đến năm Mậu Ngọ, Khải Định thứ 3 (1918), nhà Nguyễn đã tổ chức được 47 khoa thi Hương lấy đỗ được 5.208 người. Cụ thể như sau:

- Đời Gia Long 3 kỳ lấy đỗ 255 người;

- Minh Mạng 8 kỳ lấy đỗ 731 người;

- Thiệu Trị 5 kỳ lấy đỗ 600 người;

- Tực Đức 17 kỳ lấy đỗ 1851 người;

- Kiến Phúc 1 kỳ lấy đỗ 139 người;

- Đồng Khánh 3 kỳ lấy đỗ 238 người;

- Thành Thái 6 kỳ lấy đỗ 959 người;

- Duy Tân 3 kỳ lấy đỗ 376 người;

- Khải Định 1 kỳ lấy đỗ 59 người;

Nhà Nguyễn lập kinh đô ở Huế. Tất cả các kỳ thi Hội đều được tổ chức ở kinh thành. Thi Đình quy định thi tại sân rồng trong cung điện nhà vua.

Định kỳ và thể thức thi vẫn theo quy định của nhà Lê, nhưng theo luật “tứ bất” (bốn không) do Gia Long đặt ra là: Không lập Hoàng hậu; không đặt Tể tướng; không lấy Trạng nguyên và không phong tước cho người ngoài Hoàng tộc.Như vậy người thi đỗ đầu kỳ thi không được mang danh hiệu Trạng nguyên mà chỉ có danh hiệu từ Bảng nhãn trở xuống. Nhưng mãi tới năm Nhâm Ngọ (1822), tức là sau 20 năm vương triều Nguyễn được thành lập, vua Minh Mạng mới tổ chức khoa thi Hội đầu tiên dưới triều Nguyễn.

Từ năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng tổ chức khoa thi Hội đầu tiên đến năm Kỷ Mùi, Khải Định thứ 4 (1919), nhà Nguyễn tổ chức được 39 khoa thi Hội, lấy được 558 người. Cụ thể như sau:

- Đời Minh Mạng có 6 khoa thi (lấy đỗ 75 người);

- Đời Thiệu Trị có 5 khoa thi (lấy đỗ 80 người);

- Đời Tự Đức có 16 khoa thi (lấy đỗ 206 người);

- Đời Kiến Phúc có 1 khoa thi (lấy đỗ 7 người);

- Đời Thành Thái có 6 khoa thi (lấy đỗ 121 người);

- Đời Duy Tân có 3 khoa thi (lấy đỗ 33 người);

- Đời Khải Định có 2 khoa thi (lấy đỗ 36 người);

Trong số 558 người đỗ Đại khoa có 292 Tiến sĩ (Đệ nhất giáp 11 người; 2 Bảng nhãn, 9 Thám hoa; Đệ nhị giáp – Hoàng giáp 54 người; Đệ tam giáp (đồng tiến sĩ xuất thân) 227 người), 266 Phó bảng. Rất nhiều người trong số họ đã trở thành trụ cột trong triều đình, danh nhân văn hoá nổi tiếng… và thực sự đã có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển của đất nước trong thời kỳ này.

Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức … đều rất quan tâm đến đào tạo tuyển chọn, nhân tài. Kể từ thời Minh Mệnh (1820), việc đào tạo, tuyển chọn nhân tài ngày càng được chấn chỉnh, mở mang và đi vào nề nếp, quy củ. Tất cả đều nhằm mục đích tuyển chọn thêm người tài bổ sung cho bộ máy quản lý đất nước. Trong đường lối chính sách đó, hình thức khoa cử là phương tiện chính yếu để tuyển chọn và sử dụng. Theo số liệu trong Đại Nam liệt truyệnchỉ tính từ thời Gia Long đến Tự Đức số người tài được tuyển chọn qua khoa cử là 247 người, còn không qua thi cử là 99 người. Trong đó tuyển dụng không qua thi cử thời Gia Long là đông nhất 38 người. Còn tuyển dụng qua khoa cử thời Minh Mệnh là 95 người, thời Tự Đức là 83 người.

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Đoàn đại biểu VUSTA viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chiều ngày 24/5/2025, đoàn đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do TSKH. Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam làm trưởng đoàn đã tới kính viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...