Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 13/03/2010 07:00 (GMT+7)

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2020

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch Hội đồng trung ương về việc xây dụng Chiến lược phát triển Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Ban chủ nhiệm đề án xây dựng Chiến lược đã triển khai các hoạt động xây dựng Chiến lược từ cuối năm 2008. Bản Chiến lược được xây dựng dựa trên các phân tích về cơ hội phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam trong xu thế phát triển của đất nước và sự nghiệp khoa học công nghệ cũng như tổng kết hoạt động trong hơn 26 năm qua, đặc biệt là 10 năm thực hiện Chỉ thị 45/CT-TW của Bộ Chính trị về phát triển Liên hiệp hội Việt Nam. Dự thảo Chiến lược đã được góp ý, chỉnh sửa qua nhiều cuộc hội thảo, toạ đàm với sự tham gia của đông đảo đại diện các hội thành viên, đơn vị 81, tổ chức trong và ngoài Liên hiệp hội Việt Nam và các chuyên gia trong nước và quốc tế.

Được sự đồng ý của Thường trực Đoàn Chủ tịch, Ban chủ nhiệm đề án xây dựng Chiến lược trân trọng công bố bản Dự thảo Chiến lược và rất mong tiếp tục nhận được các ý kiến đóng góp của quý vị.

Xin chân thành cảm ơn!

Ý kiến góp ý xin gửi về địa chỉ:

Văn phòng 53 Nguyễn Du, Hà Nội; Tel: 04.39438108; Fax: 04.38227593;

Email:lecongluong@gmail.com, vanphong@vusta.vn

Dự thảo

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2020

              

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trí thức có vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức. Nhiều tổ chức của trí thức đã được thành lập và phát triển. Trên cơ sở kết quả hoạt động của Uỷ ban liên lạc lâm thời các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, ngày 26/3/1983, tại Thủ đô Hà Nội, đại biểu của 14 hội khoa học và kỹ thuật ngành toàn quốc và Hội liên hiệp khoa học và kỹ thuật Hà Nội đã tổ chức Đại hội thành lập Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (gọi tắt là Liên hiệp hội Việt Nam). Việc ra đời Liên hiệp hội Việt Nam đã đáp ứng được nguyện vọng tha thiết của các hội khoa học và kỹ thuật, của các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam, mong muốn có một tổ chức chung để tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ (KH&CN) trong cả nước và ở nước ngoài; điều hoà, phối hợp các hoạt động phong phú và đa dạng của các hội thành viên; có tiếng nói chung, thống nhất, đề đạt ý kiến chung với Đảng và Nhà nước, tham gia góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trải qua hơn một phần tư thế kỷ, Liên hiệp hội Việt Nam không ngừng được củng cố và phát triển. Đến nay, Liên hiệp hội Việt Nam đã trở thành tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp được đông đảo đội ngũ trí thức trong các hội KH&CN hoạt động trên phạm vi toàn quốc và các liên hiệp hội ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Liên hiệp hội Việt Nam đã có đóng góp đáng kể cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong hơn một phần tư thế kỷ qua, hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam chủ yếu dựa vào Điều lệ và các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Liên hiệp hội Việt Nam được tổ chức theo nhiệm kỳ 5 năm một lần. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định, song những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đã được xác định. Nhìn chung, Liên hiệp hội Việt Nam chưa có những đóng góp nổi bật để giải quyết những vấn đề lớn của đất nước, chưa làm tốt công tác vận động trí thức, công tác chính trị - tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của các hội viên. Liên hiệp hội Việt Nam còn thiếu một tầm nhìn chiến lược dài hạn cho sự phát triển bền vững của mình.

Để thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của Liên hiệp hội Việt Nam đã được xác định trong Điều lệ, nhằm có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước, đáp ứng được sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là tổ chức chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN, Liên hiệp hội Việt Nam xây dựng “Chiến lược phát triển Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020” (gọi tắt là Chiến lược phát triển Liên hiệp hội Việt Nam ).

Chiến lược phát triển Liên hiệp hội Việt Nam được đặt trong bối cảnh và điều kiện Việt Nam đang tiếp tục con đường đổi mới toàn diện nhằm đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

Chiến lược phát triển Liên hiệp hội Việt Nam dựa trên những quan điểmcơ bảncủa Đảngvà Nhà nước về phát triển KH&CN (“KHCN và GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực của CNH, HĐH” (NQ TW2 khóa VIII))và vai trò của đội ngũ trí thức trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức (NQ TW7 khoá X).

Chiến lược phát triển Liên hiệp hội Việt Nam dựa trên những quan điểmcơ bảncủa Đảngvà Nhà nước về xây dựngLiên hiệp hội Việt Namtrở thànhmột tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh,tập hợp, đoàn kết rộng rãivà động viênđội ngũ trí thức KH&CNngười Việt Nam ởtrong và ngoài nước gópphầnxây dựngvà bảo vệ Tổ quốc;tạo điều kiện thuận lợi cho Liên hiệp hội Việt Nam hoạt động và phát triển; quan tâm tới quyền lợi vật chất và tinh thần của trí thức KH&CN và của cáchội thành viên trong Liên hiệp hội Việt Nam .

Chiến lược cũng dựa trên Điều lệ của Liên hiệp hội Việt Nam; các Nghị quyết Đại hội; các báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm tại Hội nghị Hội đồng trung ương và các báo cáo chuyên đề; các hội thảo, thảo luận trong Hội đồng trung ương, Đoàn Chủ tịch; các báo cáo trong Hội nghị giao banhội thành viên; thực tiễn hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam từ ngày thành lập đến nay, đặc biệt trong 10 năm trở lại đây; kinh nghiệm hoạt động của các tổ chức hội và liên hiệp hội trong nước và quốc tế.

Xuất phát từ thực trạng hiện nay của Liên hiệp hội Việt Nam,từbối cảnh trong nước và quốc tế,Chiến lược sẽ vạch ra lộ trình hoàn thiệncơ sở pháp lý, hoàn thiệnhệ thống tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nhằm huy động tiềm lực to lớn của đội ngũ trí thức KH&CN tích cực, chủ động tham gia vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Chiến lược phát triển Liên hiệp hội Việt Nam là một chiến lược khung đưa ra tầm nhìn, sứ mệnh, những mục tiêu chiến lược và các nhiệm vụ cần thực hiện mang tính dài hạn, liên tục làm cơ sở để Liên hiệp hội Việt Nam, cáchộithành viên, các tổ chức trong hệ thống triển khai thực hiện và phối hợp hành động. Trong quá trình triển khai thực hiện, Chiến lược phát triển Liên hiệp hội Việt Nam sẽ thường xuyên được xem xét để bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển.

Phần 1

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌCVÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA

1. Những kết quả đạt được

1.1.   Liên hiệp hội Việt Nam tham gia tích cực vào đời sống chính trị và xã hội của đất nước, vai trò và vị thế của Liên hiệp hội Việt Nam ngày càng được khẳng định trong xã hội.

Liên hiệp hội Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết rộng rãi đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong nước với nhiều hình thức đa dạng, nội dung hoạt động phong phú, ngày càng thể hiện được vai trò của tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho trí thức khoa học và công nghệ ở trung ương và địa phương; là thành viên tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; là thành tố quan trọng trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức.

Liên hiệp hội Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ, động viên, giúp đỡ tích cực của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp. Sự lãnh đạo sát sao của Đảng và sự quan tâm của Nhà nước thể hiện qua hàng loạt các văn bản chỉ đạo cũng như nhiều văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách được áp dụng ở trung ương và địa phương, đã đặt cơ sở và tạo hành lang pháp lý cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam, của các hội thành viên, đáp ứng nguyện vọng của trí thức khoa học và công nghệ nước nhà. Với việc ban hành Chỉ thị 45-CT/TW ngày 11/11/1998, tính chất chính trị - xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác đã được khẳng định. Đảng và Nhà nước đã giao cho Liên hiệp hội Việt Nam thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng, đã tác động tích cực đến sự phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam cả về quy mô tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động.

Liên hiệp hội Việt Nam luôn tích cực và chủ động tham gia đóng góp ý kiến vào việc hình thành, xây dựng và thực hiện các chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách, chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, môi trường, giáo dục và đào tạo, y tế. Liên hiệp hội Việt Nam là địa chỉ tin cậy trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, phản ánh trung thực dư luận xã hội đối với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; là một nhân tố tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước; thể hiện tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với trí thức khoa học và công nghệ.

Liên hiệp hội Việt Nam đã kí kết và thực hiện thoả thuận hợp tác với nhiều bộ, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức ở trung ương và các địa phương, tạo môi trường để đội ngũ trí thức tham gia giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tích cực thúc đẩy, động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tiến quân vào khoa học và kỹ thuật; thường xuyên tổ chức lễ kỉ niệm các danh nhân văn hoá, tôn vinh các nhà khoa học tiêu biểu; tổ chức Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc, Giải thưởng sáng tạo khoa học và công nghệ, tuyên truyền và phổ biến kiến thức trong nhân dân dưới nhiều hình thức.

1.2. Hệ thống tổ chức Liên hiệp hội Việt Nam được củng cố và phát triển

Liên hiệp hội Việt Nam có 125 hội thành viên, trong đó có 70 hội khoa học và kỹ thuật hoạt động trong phạm vi toàn quốc (gọi chung là hội ngành toàn quốc) và 55 liên hiệp hội tỉnh, thành phố. Ở một số tỉnh, thành phố, tổ chức hội đã phát triển đến cấp quận, huyện và ở một số địa phương tới cấp xã, phường. Mạng lưới hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các tổ chức thành viên phát triển sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các trường đại học và cao đẳng, các viện khoa học và cơ sở nghiên cứu, các cơ quan quản lí nhà nước và nhiều tổ chức khác. Hiện nay, các hội thành viên thuộc Liên hiệp hội Việt Nam đã thu hút được khoảng trên 1,8 triệu hội viên, trong đó có khoảng 0,8 triệu hội viên là trí thức khoa học và công nghệ (chiếm gần 1/3 trí thức hiện có của cả nước).

Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên đã thành lập khoảng hơn 500 đơn vị khoa học và công nghệ hoạt động theo Luật Khoa học và Công nghệ, trong đó có trên 270 đơn vị trực thuộc Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam (dưới dạng Viện, Liên hiệp khoa học - sản xuất, Trung tâm nghiên cứu - ứng dụng) để thu hút lực lượng trí thức tham gia hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp.

Liên hiệp hội Việt Nam hiện có 01 nhà xuất bản; 197 loại ấn phẩm thông tin báo chí (bao gồm 6 báo, 77 tạp chí, 59 bản tin, trên 40 trang tin điện tử, trong đó gần 40 tạp chí có uy tín khoa học cao, đăng tải các bài báo được tính điểm công trình quy đổi khi xét công nhận các chức danh giáo sư, phó giáo sư) nhằm thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật, trao đổi học thuật, góp phần nâng cao dân trí.

Nhằm thu hút lực lượng trí thức người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên đã tổ chức nhiều hình thức hoạt động dưới dạng câu lạc bộ, diễn đàn, toạ đàm, hội nghị, hội thảo khoa học hoặc các đề tài, dự án triển khai thực hiện trong nước, tạo điều kiện cho các chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia.

Đảng bộ Cơ quan Liên hiệp hội Việt Nam có 47 chi bộ và hơn 400 đảng viên. Đảng uỷ đã phối hợp tốt với Đảng đoàn và Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương trong việc chỉ đạo, lãnh đạo mọi hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam .

1.3. Hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp ngày càng được mở rộng, đa dạng và hiệu quả

a. Hoạt động thông tin và phổ biến kiến thức, phát động phong trào quần chúng tham gia hoạt động sáng tạo KH&CN:Liên hiệp hội Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh hoạt động phổ biến kiến thức trong nhân dân, đã biên tập và cung cấp những ấn phẩm, tài liệu về khoa học và kỹ thuật ở nhiều trình độ phục vụ đông đảo độc giả cả nước; tổ chức nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức đến đông đảo quần chúng thông qua báo chí, sách, đài phát thanh, truyền hình, các lớp tập huấn, hội thảo, câu lạc bộ, triển lãm v.v… Liên hiệp hội Việt Nam đã định kỳ tổ chức nhiều giải thưởng, hội thi góp phần tạo ra các phong trào thi đua tiến quân vào khoa học và kỹ thuật.

b. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội (TVPB&GĐXH): Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên đã tổ chức cho đông đảo các nhà khoa học đóng góp ý kiến vào dự thảo các chủ trương, đường lối, chính sách, chương trình, đề án, dự án quan trọng của Đảng và Nhà nước, là kênh quan trọng, đáng tin cậy giúp các cơ quan Đảng và Nhà nước có được những thông tin phản ánh trung thực, khách quan ý kiến của các nhà khoa học và dư luận xã hội. Hoạt động này được xã hội đánh giá cao.

c. Hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường:Liên hiệp hội Việt Nam đã tích cực huy động đội ngũ các nhà khoa học tham gia thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường; triển khai nhiều dự án điều tra cơ bản và môi trường, nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu, dự án sản xuất thử nghiệm cấp Nhà nước và hàng trăm đề tài cấp Liên hiệp hội Việt Nam. Hầu hết các đề tài, dự án do Liên hiệp hội Việt Nam quản lí tập trung nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản xuất và đời sống đã đạt được một số kết quả nổi bật.

d. Hoạt động giáo dục và đào tạo:Liên hiệp hội Việt Nam và các tổ chức thành viên đã tổ chức hàng vạn khoá đào tạo chuyên ngành trong nhiều lĩnh vực khác nhau (liên kết với các trường thuộc hệ thống đào tạo chính quy); tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho các tầng lớp nhân dân, đào tạo nâng cao năng lực, vận động chính sách, tư vấn, phản biện và giám định xã hội cho cán bộ hội. Các hội thành viên thuộc Liên hiệp hội Việt Nam đã thành lập hoặc bảo trợ thành lập hàng chục trường đại học, cao đẳng và trung học dạy nghề; tham gia tích cực vào quá trình xã hội hoá giáo dục và đào tạo.

e. Hoạt động phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo:Các tổ chức trong Liên hiệp hội Việt Nam đã tích cực tham gia hoạt động phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo. Nhìn chung, hoạt động này có hiệu quả, tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phòng chống HIV/AIDS, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, chuyển giao tiến bộ kĩ thuật, giáo dục pháp luật, đào tạo, tập huấn và nâng cao năng lực cộng đồng.

1.4. Hoạt động hợp tác quốc tế được đẩy mạnh

Liên hiệp hội Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác với nhiều tổ chức quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam cũng như của Liên hiệp hội Việt Nam trên thế giới. Trong những năm gần đây, Liên hiệp hội Việt Nam đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quốc tế, thu hút tài trợ, giúp nâng cao năng lực cho cán bộ hoạt động hội, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Liên hiệp hội Việt Nam đã triển khai một số hoạt động hợp tác với trí thức Việt kiều thông qua các hội thảo, hội nghị khoa học, diễn đàn do Liên hiệp hội và các hội thành viên tổ chức tại Việt Nam và mời chuyên gia Việt kiều tham gia hoạt động chuyên môn tại các tổ chức KH&CN.

2. Những mặt còn hạn chế

2.1. Hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội Việt Nam tuy lớn nhưng chưa thực sự vững mạnh, đã bộc lộ nhiều bất cập trong quá trình vận hành

Tổ chức bộ máy trong hệ thống bộc lộ nhiều điểm bất cập: việc kết nạp tổ chức thành viên ở các liên hiệp hội địa phương còn tuỳ tiện, thiếu thống nhất; mối quan hệ giữa Liên hiệp hội Trung ương và các hội thành viên còn thiếu chặt chẽ; tính hệ thống của tổ chức chính trị - xã hội không rõ nét mà chỉ dừng lại ở mức độ phối hợp hoạt động, thiếu tính chất chỉ đạo, gắn kết chặt chẽ; công tác quản lý báo chí, xuất bản còn lỏng lẻo. Liên hiệp hội Việt Nam chưa thực sự trở thành một tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh.

Liên hiệp hội Việt Nam chưa thực sự quan tâm nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống trong tình hình mới ở nước ta, vì vậy thiếu các luận cứ khoa học và cơ sở lý luận về tổ chức và phát triển hội. Công tác lãnh đạo và điều hành chưa theo kịp xu thế phát triển của đất nước, chậm đổi mới trong thực tiễn; kết quả hoạt động còn phụ thuộc nhiều vào phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm của những người đứng đầu. Nội dung và phương thức hoạt động hội còn lúng túng, mang dáng dấp của cơ quan hành chính nhà nước. Liên hiệp hội Việt Nam chưa tạo ra sự liên kết hữu hiệu trong hệ thống (các mối liên kết dọc và liên kết ngang)để gắn kết hoạt động giữa các hội thành viên .

Đội ngũ cán bộ vừa thiếu lại vừa yếu, năng lực công tác hội còn hạn chế.

Cơ sở vật chất của Liên hiệp hội từ trung ương tới địa phương còn nghèo, không đáp ứng được yêu cầu hoạt động. Tuy hằng năm Nhà nước có hỗ trợ kinh phí, nhưng quá ít, nguồn tài chính còn rất eo hẹp, việc tự tạo thêm kinh phí gặp nhiều khó khăn do vướng mắc về cơ chế.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ trí thức, nhìn chung, chưa được chú trọng đúng mức. Công tác đảng mới chỉ dừng ở mức độ tập hợp đảng viên và giữ vững sinh hoạt đảng, chưa thể hiện được vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, nhất là ở các tổ chức thành viên. Hoạt động của Đảng đoàn còn lúng túng vì thiếu quy chế qui định chung. Công tác vận động trí thức còn yếu, chưa làm tốt công tác hội viên, mới chỉ tập hợp được khoảng 30% trí thức trong cả nước; chưa chú ý đầy đủ tới lợi ích và bảo vệ quyền lợi chính đáng của tổ chức thành viên và hội viên, vì vậy nhiều trí thức trẻ, trí thức trong các doanh nghiệp và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài còn ít quan tâm tới hoạt động hội.

Vai trò của Liên hiệp hội Việt Nam trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa thực sự nổi bật. Hiệu quả phối hợp hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam với các cơ quan nhà nước trong việc khai thác tiềm năng, sức sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ chưa cao.

2.2. Hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp còn chưa tương xứng với tiềm năng

Cơ chế thực hiện hoạt động TVPB&GĐXH cho các tổ chức hội còn nhiều bất cập, vì vậy Liên hiệp hội Việt Nam chưa chủ động và chưa thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này. Việc chuyển giao các dịch vụ công từ các cơ quan nhà nước sang cho các tổ chức hội còn chậm. Liên hiệp hội Việt Nam không có điều kiện thực hiện các đề án lớn, nên ít có những đóng gõp nổi bật trong lĩnh vực KH&CN, GD&ĐT, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; chưa đóng vai trò tích cực góp phần đưa KH&CN vào cuộc sống.

2.3. Hoạt động hợp tác quốc tế còn hạn chế

Nhìn chung, hoạt động hợp tác quốc tế của Liên hiệp hội Việt Nam còn ít. Liên hiệp hội Việt Nam chưa khai thác có hiệu quả mối quan hệ với các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vức KH&CN; thiếu kinh phí để mở rộng mối quan hệ với các hội KHKT trên thế giới; chưa vận động được nhiều nguồn lực từ các tổ chức quốc tế và các nhà tài trợ nhằm bổ sung các cơ hội để thực hiện các dự án đầu tư phát triển do Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì; chưa tạo được hình thức hợp tác nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức Việt kiều, nhất là trí thức đang làm việc tại các nước phát triển .

Nguyên nhân của những mặt hạn chế nêu trên bắt nguồn từ việc Liên hiệp hội Việt Nam chậm đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động; tiềm năng của Liên hiệp hội Việt Nam rất lớn, nhưng chưa phát huy được sức sáng tạo của đội ngũ trí thức KH&CN. Mặt khác, nhận thức của các ngành, các cấp về vị trí, vai trò, tính chất của Liên hiệp hội Việt Nam còn khác nhau; có nơi nhận thức không đúng với tinh thần chỉ thị, nghị quyết của Đảng, ở nhiều địa phương đến nay vẫn chỉ coi Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật như là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, làm cho vai trò của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật bị hạ thấp. Nhiều cơ chế, chính sách chưa được ban hành kịp thời nhằm tạo điều kiện cần thiết cho Liên hiệp hội Việt Nam hoạt động.

Phần 2

BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM

1. Bối cảnh quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, khách quan, sẽ tiếp tục lôi cuốn sự tham gia ngày càng sâu rộng của tất cả các nước trên thế giới và bao trùm nhiều lĩnh vực. Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác phát triển, sẽ tăng thêm sức ép cạnh tranh và tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các nước phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, đặt ra vị trí mới của KH&CN, GD&ĐT.

Khoa học và công nghệ sẽ tiếp tục có những bước nhảy vọt và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, công nghệ thông tin tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hoá, nhưng cũng tạo điều kiện cho sự du nhập những giá trị xa lạ. Ở mỗi quốc gia đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, ngăn chặn những yếu tố ảnh hưởng đến an ninh của mỗi nước.

Tri thức và sở hữu trí tuệ tiếp tục có vai vai trò ngày càng quan trọng. Việc làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển. Các chu trình luân chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn; các điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới luôn thay đổi đòi hỏi các quốc gia cũng như các doanh nghiệp, tổ chức phải luôn nhanh nhạy nắm bắt, thích nghi.

Các nước đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam, có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển hơn trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nguy cơ bị tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên.

Trong phạm vi quốc tế hiện nay, sự phát triển và phát huy vai trò của các hình thức tổ chức tự nguyện, phi chính phủ và tự quản phi lợi nhuận ngày càng lớn. Đó là xu thế khách quan trên thế giới, thể hiện quá trình dân chủ hóa với sự tham gia ngày càng trực tiếp, rộng rãi của quần chúng nhân dân trong đời sống chính trị và xã hội của các quốc gia. Các tổ chức dân lập đóng vai trò tư vấn chính sách, phản biện xã hội, tổ chức các công việc công ích để đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng xã hội, chia sẻ trách nhiệm cùng với Nhà nước. Nhiều tổ chức được giao thực hiện một số nhiệm vụ, chức năng mà trước đó vẫn thuộc về các cơ quan công quyền. Một số tổ chức trở thành đối tác ổn định của các cơ quan nhà nước. Sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân dưới hình thức chung là xã hội công dân càng ngày càng phát huy được vai trò tích cực tại nhiều quốc gia, nhất là ở các nước phát triển.

2. Bối cảnh trong nước

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh với vị thế và diện mạo mới. Kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu. An ninh, quốc phòng được giữ vững; đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế với nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao, với môi trường chính trị ổn định.

Đảng và Nhà nước đã và đang thực thi những chính sách đổi mới, phù hợp với xu thế phát triển. Hành lang pháp lý đang ngày càng hoàn thiện, với tinh thần mở rộng dân chủ, tạo cơ hội và điều kiện để nhân dân tham gia tích cực vào việc giải quyết các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Bên cạnh việc phát huy vai trò quản lý Nhà nước và hoàn thiện nền kinh tế thị trường, việc phát triển các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp là một nhu cầu và xu thế tất yếu trong tiến trình phát huy dân chủ, huy động mọi tiềm năng sức lực và trí tuệ để xây dựng đất nước theo hướng CNH, HĐH. Điều này đã nhận được sự đồng tình của toàn xã hội.

Mặc dù có những bước phát triển quan trọng trong quá trình đổi mới, song nước ta vẫn cơ bản là một nước có mức thu nhập thấp. Nguy cơ tụt hậu vẫn là một thách thức mà nước ta đang phải đối mặt. Đổi mới kinh tế chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới của thế giới. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội như tham nhũng, bất công, khoảng cách giàu, nghèo… chậm được giải quyết, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển bền vững.

3. Cơ hội, thách thức đối với Liên hiệp hội Việt Nam

3.1. Cơ hội

Sự hội nhập của Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ về mọi mặt, quá trình dân chủ hoá đang có những nền tảng tốt để ngày càng phát triển. Phát triển các tổ chức quần chúng là một xu thế của thời đại nhằm đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân, tạo cơ hội để người dân tham gia cùng Nhà nước giải quyết những vấn đề về quốc kế dân sinh một cách hiệu quả. Nhìn nhận của xã hội về vai trò, vị trí của hội đang được nâng cao. Với vai trò là một trong các tổ chức đầu mối lớn tập hợp các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở Việt Nam, Liên hiệp hội Việt Nam hoàn toàn có cơ hội phát triển mạnh hơn nữa cả về tổ chức, về hoạt động cũng như phạm vi ảnh hưởng trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào thế giới.

Vị trí, vai trò của Liên hiệp hội Việt Nam đã được xác lập thông qua hiệu quả hoạt động và sự đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách, cơ chế hỗ trợ, giúp đỡ hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam. Với việc ban hành Nghị quyết số 27 - NQ/TW ngày 6/8/2008 về công tác trí thức, Liên hiệp hội Việt Nam đang đứng trước những vận hội mới để tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của mình.

Đội ngũ trí thức KH&CN tại Việt Nam hiện gồm hơn 2,6 triệu người. Đội ngũ này đang không ngừng tăng lên. Thêm vào đó, trí thức Việt kiều cũng đang mong muốn đóng góp nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng và phát triển Tổ quốc. Liên hiệp hội Việt Nam đã tạo được hình ảnh tốt trong xã hội, vì vậy việc tập hợp rộng rãi các tổ chức của trí thức KH&CN, các trí thức tiêu biểu hoạt động trong tầm ảnh hưởng của Liên hiệp hội Việt Nam rất thuận lợi và khả thi. Liên hiệp hội Việt Nam có khả năng tạo ra các sân chơi chung cho các tổ chức thành viên của mình, có khả năng cung cấp tốt các dịch vụ cho các tổ chức thành viên.

Nước ta đã mở cửa và tham gia hội nhập quốc tế toàn diện về kinh tế, vì vậy cơ hội giao lưu, hợp tác, tiếp nhận các hỗ trợ quốc tế của Liên hiệp hội Việt Nam rất thuận lợi. Các tổ chức quốc tế vẫn tăng cường hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực: nâng cao năng lực, phát triển thể chế, KH&CN, y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường. Những cơ hội đó sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam .

Nhà nước đang có kế hoạch đẩy mạnh lộ trình chuyển các dịch vụ công sang khu vực ngoài nhà nước, cho các tổ chức nghề nghiệp, vì vậy hoạt động hội sẽ tạo sự hấp dẫn đối với các lớp trí thức trẻ.

3.2. Thách thức

Hành lang pháp lý cho việc thành lập, phát triển và hoạt động của các tổ chức quần chúng nói chung, của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên nói riêng còn chưa hoàn chỉnh. Cơ hội tiếp cận với các nhiệm vụ chuyển giao từ Nhà nước còn nhiều khó khăn.

Hoạt động KH&CN còn nhiều bất cập, hiệu quả còn thấp; cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động KH&CN còn chưa đáp ứng yêu cầu để tạo điều kiện phát huy năng lực cộng sinh của đội ngũ trí thức. Chi tiêu của Chính phủ cho nghiên cứu và phát triển KH&CN còn thấp, chưa hợp lý, dàn trải. Các công trình KH&CN đột phá còn ít; thị trường công nghệ chưa phát triển, tốc độ chuyển giao KH&CN chậm.

Hình ảnh của Liên hiệp hội Việt Nam trong xã hội chưa cao, đông đảo công chúng chưa có nhiều thông tin về tổ chức và hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam. Các hội KH&CN chưa có nhiều cơ hội để tham gia đóng góp vào sự phát triển đất nước.

Trong tương lai, nguồn kinh phí từ các tổ chức quốc tế tài trợ cho Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ sẽ giảm đi. Điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của một số tổ chức trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam .

Sự phát triển mạnh của các tổ chức xã hội khác sẽ tạo sự cạnh tranh lớn đối với Liên hiệp hội Việt Nam về nguồn lực con người cũng như về nguồn tài chính.

Mô hình tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của hội hiện nay còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với tình hình mới. Bên cạnh đó, quyền lợi hội viên chưa thật hấp dẫn nên chưa khuyến khích được trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ tham gia hoạt động hội.

Phần 3

QUAN ĐIỂM, TẦM NHÌN, SỨ MỆNH, MỤC TIÊU, NHIÊM VỤ

VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NHẰM PHÁT TRIỂN

LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM

1. Quan điểm phát triển Liên hiệp hội Việt Nam

a.   Liên hiệp hội Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN Việt Nam, có hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương; tập hợp, đoàn kết rộng rãi và phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức KH&CN trong và ngoài nước, góp phần đưa KH&CN trở thành động lực của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

b.Phát triển Liên hiệp hội Việt Nam là trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam, của đội ngũ trí thức KH&CN nước nhà. Đảng và Nhà nước quan tâm tới quyền lợi vật chất và tinh thần của trí thức; tạo điều kiện thuận lợi cho Liên hiệp hội Việt Nam phát triển vững mạnh.

c.Liên hiệp hội Việt Nam đẩy mạnh thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức KH&CN; có trách nhiệm lớn trong việc phát triển, bồi dưỡng nhằm sử dụng tốt đội ngũ trí thức; thường xuyên nâng cao năng lực, thực hiện tốt các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, phổ biến kiến thức, nâng cao dân trí, xã hội hóa trong các lĩnh vực KH&CN, GD&ĐT, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe nhân dân và thực hiện các dịch vụ công.

2. Tầm nhìn

Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trở thành một tổ chức có vị thế xứng đáng trong hệ thống chính trị, trong xã hội ở nước ta; là nhân tố quan trọng đưa tri thức trở thành nền tảng và động lực quyết định phát triển bền vững đất nước.

3. Sứ mệnh

Liên hiệp hội Việt Nam là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức thành viên, của trí thức KH&CN; khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức thành viên, thúc đẩy và tạo thuận lợi cho trí thức KH&CN tham gia phát triển xã hội, nâng cao nhận thức của công chúng về KH&CN; cống hiến vào sự phát triển của quốc gia thông qua phân tích, đánh giá độc lập, khách quan những vấn đề quan trọng của đất nước.

4. Mục tiêu

4.1. Mục tiêu tổng quát

Đến năm 2020, Liên hiệp hội Việt Nam trở thành một tổ chức chính trị - xã hội thực sự vững mạnh từ trung ương đến địa phương; giữ vai trò nòng cốt trong tập hợp, đoàn kết rộng rãi và phát huy sức mạnh sáng tạo của đội ngũ trí thức KH&CN; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội thành viên và hội viên hoạt động trong các hội; là nhân tố quan trọng đưa KH&CN trở thành động lực phát triển nền kinh tế tri thức, góp phần phát triển bền vững đất nước.

4.2. Các mục tiêu cụ thể

Mục tiêu 1

Xây dựngLiên hiệp hội Việt Nam trở thành một tổ chức chính trị - xã hội thực sự vững mạnh của trí thức KH&CN có hệ thống từ trung ương đến địa phương

Các tiêu chí đánh giá:

a.Về vai trò, vị thế:

·        Liên hiệp hội Việt Nam ở trung ương và ở địa phương được khẳng định rõ ràng về mặt pháp lý, có vị trí xứng đáng trong hệ thống chính trị;

·        Đóng vai trò tích cực trong đời sống chính trị của đất nước, tham gia vào quá trình hoạch định và thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và các nhiệm vụ có tầm quan trọng quốc gia;

·        Đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ; thực hiện tốt nhiệm vụ vận động, tập hợp trí thức; tham gia định hướng chính trị - tư tưởng, định hướng thông tin; giáo dục truyền thống; nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ trí thức KH&CN.

b.Về quy mô:

·        Tất cảcáctỉnh,thành phố trực thuộc trung ương đều có tổ chứcliên hiệp hội;

·        Hầu hết các hội KH&CN hoạt động trên quy mô toàn quốc được thành lập mới trở thành thành viên của Liên hiệp hội Việt Nam;

·        Các tổ chức hoạt động KH&CN thuộc Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên hoạt động ngày càng hiệu quả và có đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển của đất nước;

·        Trên 50% trí thức KH&CN được tập hợp trong các hội thành viên và tổ chức thuộc Liên hiệp hội Việt Nam.

c.   Về tổ chức bộ máy

·        Hệ thống tổ chức từ trung ương tới địa phương (Hội đồng trung ương, bộ máy Cơ quan Trung ương và Ban Chấp hành, bộ máy Văn phòngcác hội thành viên)được củng cố và kiện toàn, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của toàn hệ thống.

Mục tiêu 2

Liên hiệp hội Việt Nam thực hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và hỗ trợ nhu cầu phát triển của các thành viên trong hệ thống

Các tiêu chí đánh giá:

a) Vai trò đại diện:

·        Liên hiệp hội Việt Nam là đại diện chính thức của cáchộithành viên và trí thức KH&CN liên quan tới những vấn đề về trí thức KH&CN với Đảng, Nhà nước và quốc tế;

·        Liên hiệp hội Việt Nam tham gia giải quyết những vấn đề liên quan tới quyền và lợi ích hợp pháp của trí thức KH&CN;

·        Các hội thành viên bảo vệ quyền và nghĩa vụ của hội viên, xây dựng cơ sở dữ liệu và cấp thẻ hội viên.

b) Vai trò hỗ trợ các hội thành viên:

·        Hoạt động điều phối, hướng dẫn, định hướng của Liên hiệp hội Việt Nam đối với các tổ chức thành viên được tăng cường;

·        Công tác huy động và chia sẻ nguồn lực cho các thành viên trong hệ thống được đẩy mạnh;

·        Cơ sở dữ liệu, mạng lưới chuyên gia và cơ chế chia sẻ thông tin được xây dựng và vận hành có hiệu quả;

·        Cán bộ hoạt động hội được hỗ trợ đào tạo theo một chương trình thống nhất của hệ thống, phục vụ yêu cầu phát triển hội.

Mục tiêu 3

Liên hiệp hội Việt Nam là nhân tố quan trọng đưa KH&CN trở thành động lực quyết định phát triển bền vững đất nước

·        Là đầu mối quan trọng trong việc phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật phổ thông cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt cho đồng bào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; cung cấp cho xã hội nhiều ấn phẩm thông tin khoa học và công nghệ, tri thức tinh hoa của nhân loại;

·        Trở thành đối tác quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình, đề án trọng điểm, các hoạt động xã hội hoá, dịch vụ công trong lĩnh vực KH & CN, GD&ĐT, y tế, bảo vệ môi trường và phát triển cộng đồng, xoá đói giảm nghèo.

Mục tiêu 4

Liên hiệp hội Việt Nam trở thành đối tác có uy tín của các tổ chức trong nước và quốc tế; là một đầu mối quan trọng trong công tác vận động, thu hút trí thức Việt kiều tham gia phát triển đất nước

·        Quan hệ hợp tác với các tổ chức KH&CN trong nước và quốc tế được củng cố và mở rộng;

·        Trở thành một kênh hoạt động có hiệu quả trong công tác ngoại giao nhân dân;

·        Thu hút đông đảo trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào sự nghiệp phát triển đất nước;

·        Nguồn kinh phí hỗ trợ từ các tổ chức trong nước và quốc tế ngày càng tăng.

5. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

1. Vận động và chủ động tham gia hoàn thiện môi trường và khung pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên

·        Tham gia xây dựng và triển khai các Đề án của Đảng và Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27 - NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước liên quan đến Liên hiệp hội Việt Nam;

·        Chủ động kiến nghị, tích cực tham gia xây dựng các văn bản chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam trong giai đoạn mới: Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chỉ thị của Ban Bí thư,...;

·        Kiến nghị và tham gia với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động và phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam;

·        Góp phần thúc đẩy việc nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền về vai trò, vị trí của LHHVN;

·        Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giới thiệu và quảng bá hình ảnh của Liên hiệp hội Việt Nam trong xã hội;

·        Đổi mới phương thức nhằm quán triệt có hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt công tác chính trị - tư tưởng cho trí thức KH&CN;

·        Củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của các Đảng đoàn, Đảng uỷ đối với các hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam.

2. Củng cố, kiện toàn và phát triển tổ chức từ trung ương tới địa phương; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các tổ chức thành viên

·        Hoàn thiện cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của Hội đồng trung ương, Đoàn Chủ tịch, Đảng đoàn, Thường trực Đoàn Chủ tịch, Cơ quan Liên hiệp hội Việt Nam nhằm tăng cường năng lực ra quyết định và năng lực điều phối hoạt động;

·        Thúc đẩy hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của các hội thành viên, các đơn vị trực thuộc;

·        Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế phối hợp hoạt động giữa Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam với các hội thành viên, các tổ chức trực thuộc, các mạng lưới;

·        Đa dạng hoá các loại hình nhằm tập hợp đông đảo trí thức trong đó có cả trí thức hoạt động ngoài Nhà nước, trí thức trong doanh nghiệp, trí thức trẻ; tạo môi trường thuận lợi nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ của trí thức khoa học công nghệ;

3. Giải quyết kịp thời những vấn đề liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của các thành viên; hỗ trợ và cung ứng tốt dịch vụ cho các thành viên

·        Tư vấn, tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chính sách phù hợp nhằm phát huy năng lực sáng tạo và sự cống hiến của đội ngũ trí thức phục vụ phát triển đất nước. Tập hợp ý kiến, nguyện vọng của các tổ chức thành viên kiến nghị với cơ quan chức năng trong việc xây dựng chế độ, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của hội thành viên, hội viên;

·        Tổ chức các diễn đàn thích hợp tạo điều kiện cho trí thức được thể hiện tâm tư, nguyện vọng, bày tỏ ý kiến đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển đất nước;

·        Đẩy mạnh hoạt động tôn vinh trí thức KH&CN thông qua nhiều hình thức khác nhau;

·        Nâng cao năng lực chuyên môn và tính chuyên nghiệp cho các hội thành viên, cho đội ngũ chuyên gia trong hoạt động tư vấn, phản biện, giám định xã hội; Chủ động thực hiện vận động chính sách nhằm mang lại sự thay đổi có lợi cho việc phát triển đất nước, cho sự phát triển KH&CN cũng như quyền lợi của trí thức.

·        Hỗ trợ hội viên, hội thành viên thông qua chương trình đào tạo nâng cao năng lực; gắn việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ trí thức với việc bảo đảm quyền hành nghề hợp pháp của hội viên; tích cực bảo vệ hội viên khi quyền lợi của hội viên bi vi phạm;

·        Xây dựng hệ thống các cơ sở dữ liệu và tổ chức việc cung cấp thông tin hỗ trợ cho các hội thành viên, hội viên trong việc xây dựng các chương trình, dự án cũng như thực hiện công tác tư vấn phản biện và giám định xã hội;

·        Tổ chức một số loại hình dịch vụ phù hợp để cung cấp cho hội viên, hội thành viên khi có yêu cầu.

4. Thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước

·        Xây dựng một số đề án có mục tiêu do Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì, thu hút nhiều hội thành viên và các tổ chức trực thuộc tham gia thực hiện. Đẩy mạnh khai thác các nguồn lực từ Nhà nước, từ doanh nghiệp và từ nước ngoài, tổ chức và thực hiện có hiệu quả một số chương trình trọng điểm trong lĩnh vực KH&CN, GD&ĐT, Y tế, BVMT,… với sự tham gia của đông đảo các hội thành viên, các tổ chức trong hệ thống và đội ngũ trí thức;

·        Hỗ trợ các mạng lưới, tập trung nguồn lực trong hệ thống Liên hiệp hội để điều phối một số chương trình, dự án lớn có tác dụng lâu dài và bền vững;

·        Chủ động hợp tác và tham gia cùng với các bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ quan trọng do các cơ quan đó chủ trì;

·        Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác truyền thông, phổ biến kiến thức bằng nhiều hình thức cho các tầng lớp nhân dân trên các phương tiện thông tin, báo chí, xuất bản trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam; phối hợp với các bộ, ban, ngành ở trung ương và địa phương đẩy mạnh hoạt động phổ biến kiến thức trong quần chúng;

·        Tích cực thúc đẩy việc chuyển giao các nhiệm vụ từ Nhà nước cho các tổ chức ngoài nhà nước. Tổ chức thực hiện tốt các dịch vụ công được chuyển giao trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam.

5. Tăng cường, mở rộng hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế

·        Mở rộng hoạt động liên kết, hợp tác với các tổ chức trong nước và quốc tế có liên quan. Giới thiệu các thành tựu của Việt Nam, hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam với các bạn bè quốc tế, làm tốt công tác đối ngoại nhân dân tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với Việt Nam;

·        Tranh thủ sự ủng hộ về các nguồn lực của các tổ chức trong nước, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài hỗ trợ các hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các tổ chức thành viên;

·        Hướng dẫn các hội thành viên trong hoạt động hợp tác quốc tế;

·        Tổ chức nhiều nội dung hoạt động với các hình thức phong phú để thu hút, tập hợp và khai thác tiềm năng của trí thức Việt kiều;

·        Làm tốt nhiệm vụ đại diện cho trí thức KH&CN phát ngôn trước sự kiện quốc tế khi được yêu cầu.

Phần 4

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC

1. Đại hội Liên hiệp hội Việt Nam lần thứ VI biểu quyết thông qua Chiến lược phát triển Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020; vận động các cơ quan của Đảng, Nhà nước hỗ trợ việc thực hiện Chiến lược làm cơ sở để toàn hệ thống tổ chức triển khai thực hiện.

2. Trên cơ sở nội dung Chiến lược, Hội đồng trung ương Liên hiệp hội Việt Nam, Đoàn Chủ tịch chỉ đạo Cơ quan Liên hiệp hội Việt Nam, các hội thành viên, các tổ chức trong hệ thống xây dựng các chương trình và kế hoạch cụ thể theo từng giai đoạn, từng năm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.để tổ chức thực hiện.

3. Cơ quan Liên hiệp hội Việt Nam là cơ quan đầu mối, có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các hội thành viên, các tổ chức trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức thực hiện tốt các nội dung của Chiến lược.

4. Liên hiệp hội Việt Nam lồng ghép tốt nội dung của Chiến lược với việc phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để triển khai.

Hàng năm, Cơ quan Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì, phối hợp với các hội thành viên và các tổ chức trong hệ thống tổ chức đánh giá việc thực hiện Chiến lược và báo cáo Đoàn Chủ tịch, Hội đồng trung ương. Những vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung trong Chiến lược phải được thảo luận dân chủ, rộng rãi, công khai trong Hội nghị Hội đồng trung ương.

Xem Thêm

Tin mới

Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử
Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước tổ chức khai mạc Triển lãm “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử”, kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 / 7-5-2024).