Chi cho KH&CN: Hiệu quả khó đong đếm
Nghiên cứu khoa học không mang lại tiền?
Nếu nhìn nhận đúng bản chất của hoạt động nghiên cứu khoa học thì “toàn bộ quá trình nghiên cứu chắc chắn sẽ không mang lại tiền” - đó là ý kiến rất thẳng thắn của PGS Vũ Cao Đàm phát biểu với các nhà tài chính. Theo ông, đánh giá về hiệu quả kinh tế trong đầu tư cho nghiên cứu khoa học cần phải có cái nhìn chuẩn xác, rạch ròi. Sản phẩm của nghiên cứu khoa học gồm: Nghiên cứu cơ bản (khám phá quy luật và tạo ra các lý thuyết); nghiên cứu ứng dụng (vận dụng lý thuyết để mô tả, giải thích, dự báo và đề xuất các giải pháp); triển khai (chế tác vật mẫu, làm pilot, sản xuất thử). Rõ ràng cả 3 giai đoạn này đều không mang lại lợi ích kinh tế nào, có chăng chỉ là khoản thu hồi ít ỏi, không đáng kể trong quá trình sản xuất thử. Hoạt động KH&CN chỉ bắt đầu mang lại tiền từ giai đoạn chuyển giao tri thức (trong đó bao gồm chuyển giao công nghệ) để phát triển công nghệ trong sản xuất. Nhưng cũng bắt đầu từ đây, sự thành công còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, nằm ngoài ý chí của nhà khoa học. Ở các nước trên thế giới, giai đoạn này không dùng vốn nghiên cứu mà phải sử dụng vốn vay hoặc vốn đầu tư mạo hiểm. Như vậy, để có tiền, chúng ta phải qua một giai đoạn mất tiền, thậm chí là “ném tiền qua cửa số”, đó là điều khó tránh khỏi trong hoạt động KH&CN.
Ngoài ra, khi đầu tư cho KH&CN, chúng ta phải chấp nhận sự rủi ro. Đây luôn là quy luật đặc thù của nghiên cứu khoa học. Nói như GS Hoàng Tụy thì: Nghiên cứu khoa học là tìm cái mới, dò dẫm, tìm cái chưa biết, phát triển tri thức để giải quyết một vấn đề chưa có giải pháp sẵn. Quá trình tìm tòi, sáng tạo ấy không thể đảm bảo chắc chắn 100% vì thường có những yếu tố bất ngờ, định tìm cái này lại ra cái khác... Đồng thuận với ý kiến đó, TS Nguyễn Đăng Vang (Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) dẫn chứng: Khảo sát ở Mỹ (5.2006) cho thấy, cứ 10 đề tài nghiên cứu thì chỉ có 1 đề tài có khả năng trở thành hàng hoá.
“Độ trễ” của khoa học cũng cần được nhìn nhận công bằng. Trong thực tế, có nhiều công trình nghiên cứu sau khi kết thúc phải 5, 10 năm, có khi hàng chục năm sau, khi mà KH&CN tiếp tục phát triển và có sự sẵn sàng của các điều kiện kinh tế - xã hội thì lúc đó các công trình này mới phát huy tác dụng, đem lại hiệu quả lớn lao, có khi là cuộc cách mạng về KH&CN. Về điều này, TS Phạm Hữu Giục (Bộ KH&CN) đưa ra ví dụ: Vào đầu thập niên 90, nước ta quyết định xây dựng Nhà máy điện Phú Mỹ 1 (vốn ODA của Nhật), theo tư vấn của Nhật sẽ sử dụng công nghệ tuốc bin ngưng hơi. Các cán bộ năng lượng của Việt Nam với kinh nghiệm của nhiều năm tham gia các chương trình nghiên cứu về năng lượng đã kiến nghị Chính phủ thay công nghệ tuốc bin ngưng hơi bằng công nghệ tuốc bin khí hỗn hợp (chi phí đầu tư và tiêu hao năng lượng thấp hơn). Biết tin này, một hãng của Nhật (cầm chắc thắng thầu cung cấp thiết bị theo công nghệ tuốc bin ngưng hơi) đã vận động hành lang cả hai phía Việt Namvà Nhật Bản để Chính phủ Việt Nam không chuyển đổi công nghệ. Cuối cùng, phía Việt Nam vẫn quyết định chuyển đổi. Việc chuyển đổi này đã tiết kiệm cho Việt Nam 350 triệu USD (chi phí đầu tư) + 400 triệu USD (tiết kiệm nhiên liệu trong 20 năm phát điện) = 750 triệu USD. Khoản tiền này lớn hơn nhiều so với khoản tiền Nhà nước đầu tư cho KH&CN cộng dồn từ 1954 đến đầu 1990. Đặc biệt, nhóm các nhà khoa học kiến nghị việc chuyển đổi công nghệ này từng có không ít các công trình bị coi là “bỏ ngăn kéo”.
Hiệu quả là không thể so sánh
Nhìn từ góc độ bản chất đặc thù của nghiên cứu khoa học thì như vậy, nhưng khi nghiên cứu kết thúc, được ứng dụng thành công trong sản xuất thì hiệu quả từ đầu tư cho KH&CN thể hiện như thế nào? Đó là câu hỏi hoàn toàn chính đáng của các nhà tài chính nói riêng và của nhân dân nói chung. Bàn về vấn đề này, nhiều ý kiến cho rằng khi đặt ra câu hỏi này, chúng ta cũng cần một cái nhìn xa hơn và toàn diện hơn, bởi hiệu quả thực tế mà KH&CN mang lại rất khó so sánh, đặc biệt càng khập khiễng nếu chỉ so sánh với lợi nhuận kinh tế đơn thuần theo kiểu “1 đồng bỏ ra thu được bao nhiêu đồng”. Xin lấy một ví dụ từ việc đầu tư cho sản xuất ốc Hương - mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao và là đối tượng nuôi có hiệu quả, song không chủ động được giống nên rất khó mở diện tích nuôi. Nhà nước đã đầu tư 1 đề tài cấp bộ và 1 dự án sản xuất thử nghiệm cấp nhà nước cho Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản III với tổng kinh phí 1 tỷ 300 triệu đồng, thu hồi 500 triệu đồng. Như vậy, chi phí tiêu hao trong quá trình nghiên cứu là 800 triệu đồng. Dự án đã thành công. Biết tin này, một doanh nghiệp đã đề nghị Viện chuyển giao độc quyền với giá 5 tỷ đồng. Viện từ chối và chuyển giao cho Chương trình khuyến ngư. Giả sử Viện đồng ý bán công nghệ với giá 5 tỷ đồng thì có thể tính là 1 đồng đầu tư sẽ thu được 6 đồng, lãi rất lớn (600%). Song bản chất vấn đề là ở chỗ, nếu làm như vậy thì Nhà nước chỉ thu được 1 lần 5 tỷ. Trong khi hơn 3 năm qua, công nghệ này đã được chuyển giao cho 20 điểm ở miền Trung và năm 2005 đã tạo được giá trị hơn 1.000 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Phong trào nuôi ốc Hương xuất khẩu đang phát triển rất nhanh và trong tương lai sẽ tạo được kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu USD, đồng thời cùng các sản phẩm khác tạo sự bền vững cho xuất khẩu thuỷ sản qua việc đa dạng hoá mặt hàng.
Có thể nói, sự phát triển của các ngành công nghiệp đóng tàu thuỷ, nông nghiệp, thuỷ sản, cơ khí, y tế… đều có dấu ấn quan trọng của KH&CN. GS Phạm Gia Khánh (Giám đốc Học viện Quân y, Chủ nhiệm Chương trình KH&CN phục vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng giai đoạn 2001-2005, mã số KC.10) cho biết: Trong Chương trình KC.10, chỉ tính riêng 3 kỹ thuật mới trong điều trị tim (nong van 2 lá, đặt stent động mạch vành, điều trị rối loạn nhịp tim) và 3 loại vacxin (viêm gan A, viêm gan B, viêm não Nhật Bản) thì mỗi năm đã tiết kiệm cho Nhà nước 600 tỷ đồng. Nếu tính cả Chương trình thì mỗi năm làm lợi cho Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng. Trong khi vốn đầu tư cho cả Chương trình chưa đầy 87 tỷ đồng. Đó là chưa kể hiệu quả xã hội mà Chương trình đem lại còn lớn hơn nhiều so với hiệu quả kinh tế.
Hơn nữa, cũng giống như hoạt động nghiên cứu, hiệu quả mà KH&CN mang lại có những đặc thù riêng, cần được nhìn nhận đầy đủ, chính xác, khách quan. Theo TS Phạm Hữu Giục, ngoài hiệu quả trực tiếp, gián tiếp, KH&CN còn có hiệu quả tiềm năng (ví dụ, đầu thập kỷ 70, Việt Nam nghiên cứu về ưu thế lai, 25 năm sau chúng ta đánh bật các công ty của nước ngoài, giành lại thị phần giống ngô lai), hiệu quả mang tính tích hợp (ví dụ, hiện nay Việt Nam đã thực sự làm chủ việc xây dựng các công trình thuỷ điện của mình, đặc biệt trong tư vấn và làm nhà thầu chính - những việc trước đây thường dựa vào nước ngoài, qua kinh nghiệm tích luỹ của các cán bộ KH&CN trong nhiều lĩnh vực).
Tài chính - Nội dung cần cải tiến đầu tiên
![]() |
PGS Vũ Cao Đàm lại quan tâm đến quan niệm về cơ chế “xin - cho”. Theo ông đây là điều tất yếu trong hoạt động KH&CN ở tất cả các nước, bất cứ nhà khoa học nào muốn nhận tài trợ cho nghiên cứu của mình đều phải làm dự án và trình lên cơ quan có chức năng, vấn đề là “xin” và “cho” thế nào, chứ không nên “xoá bỏ” như nhiều ý kiến trong dư luận gần đây. Vẫn theo PGS Đàm thì một trong những tiêu chí để đầu tư “trúng” cho KH&CN là các nhà tài chính phải xác định rõ bản chất của hoạt động KH&CN, như chưa nên đánh thuế hay thu hồi trong giai đoạn triển khai (vì đây vẫn là giai đoạn chưa làm ra tiền), mà chỉ nên áp dụng bắt đầu từ giai đoạn phát triển công nghệ trong sản xuất.
Cùng quan điểm với PGS Đỗ Huy Định và PGS Vũ Cao Đàm, các đại biểu đều nhất trí mong muốn: Tài chính phải thực sự là “bà đỡ”, là công cụ hỗ trợ quan trọng khuyến khích hoạt động KH&CN phát triển; cần sớm chấm dứt tình trạng tài chính “làm khó” nhà khoa học, buộc các nhà khoa học phải nói dối để nhận những thứ mà đáng ra họ phải được hưởng.
Một đại diện của Bộ Tài chính, TS Nguyễn Trường Giang cho biết, trong giai đoạn 2006-2010, “Việc quản lý kinh phí thực hiện các đề tài, dự án KH&CN sẽ theo hướng mở rộng phân cấp và giao quyền tự chủ cho tổ chức, cá nhân chủ trì trong việc sử dụng dự toán kinh phí của đề tài, dự án… theo đó sẽ thực hiện chế độ khoán kinh phí thực hiện đề tài, dự án KH&CN sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước”.
Hy vọng rằng, trong thời gian sớm nhất, những tâm tư, nguyện vọng của các nhà khoa học sẽ được các nhà quản lý hiểu, chia sẻ thông qua các biện pháp tháo gỡ tích cực. Có lẽ sẽ không thừa, khi nhắc lại: Hiệu quả của hoạt động KH&CN không chỉ phụ thuộc vào ý chí của các nhà khoa học mà còn phụ thuộc vào ý chí của toàn xã hội, đặc biệt là sự quan tâm, hợp tác tích cực từ phía các bộ/ngành liên quan.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, 09/2006









