Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng
Mạng lưới y tế cơ sở là đơn vị y tế sát dân, có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân. Nhận thức rõ điều đó, 20 năm qua Đảng, Nhà nước và ngành y tế đã có những chủ trương, định hướng cụ thể để từng bước phát triển hệ thống này. Nhiều giải pháp để phát triển mạng lưới y tế cơ sở được triển khai và đem lại hiệu quả rõ rệt, người dân được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ngay tại cơ sở. Theo báo cáo của Bộ Y tế, đến nay, tất cả các xã, phường đều có cán bộ y tế hoạt động, trong đó hơn 90% số trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; hơn 65% số xã có bác sĩ; hơn 93% số thôn bản có nhân viên y tế. Nhiều nơi đã có những hình thức sáng tạo, năng động trong hoạt động chăm sóc sức khỏe, như tổ chức các "trạm y tế nổi", "thuyền y tế", "ngựa y tế"...
Nhiều địa phương còn tổ chức các đội y tế lưu động ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị bão lụt để kịp thời phục vụ người dân. Đáng chú ý, đến hết năm 2005, cả nước đã có 37,73% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, trong đó có 11 huyện có 100% số xã đạt chuẩn. Các trạm y tế từng bước được trang bị những trang thiết bị cơ bản và xây dựng được quỹ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân địa phương. Nhờ vậy, hằng năm mạng lưới y tế cơ sở thực hiện khám, chữa bệnh cho hơn 60 triệu lượt người, trong đó 2,5 triệu lượt người điều trị nội trú, góp phần cùng tuyến huyện bảo đảm hơn 60% trong số người được khám, chữa bệnh hằng năm trên toàn quốc.
Từ bắc vào nam, từ miền xuôi lên miền núi ở địa phương nào, vùng, miền nào y tế cơ sở đều dành được sự quan tâm, đầu tư thích đáng. Các vùng khó khăn, như Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long y tế cơ sở đều được chú trọng nâng cấp, củng cố. Tại 16 tỉnh miền núi phía bắc có hơn 98% số xã đã có trạm y tế, chỉ còn một số xã mới chia tách đang xây dựng nhà trạm, gần 40% trạm y tế xã trong vùng đã có bác sĩ, hơn 80% trạm y tế xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh. Y tế tuyến huyện cũng đã được đầu tư, tập trung xây dựng được một khối nhà kỹ thuật (sáu hạng mục). Y tế tuyến tỉnh cũng được đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA đã xây dựng cơ bản các khoa, phòng điều trị, cung cấp trang thiết bị.
Ngoài ngân sách thường xuyên của Nhà nước, nhiều dự án viện trợ nước ngoài cũng đã đầu tư cho y tế các tỉnh khu vực này (Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, Cộng đồng châu Ấu, Chính phủ các nước CHLB Đức, Trung Quốc, Bỉ, Phần Lan, Nhật Bản, Italy...). Với những nguồn lực này, y tế miền núi phía bắc đã được cải thiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, và trình độ cán bộ. Mạng lưới y tế cơ sở khu vực Tây Nguyên cũng đã được đầu tư từ nhiều nguồn và tương đối toàn diện từ hai dự án lớn là Hỗ trợ Y tế Quốc gia và Dân số và Sức khỏe gia đình sử dụng vốn vay Ngân hàng Thế giới. Do vậy hơn 97% số xã có cơ sở nhà trạm được xây dựng, củng cố, chỉ còn gần 30 xã mới chia tách đang xây dựng nhà trạm.
Đi liền với phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế, từ năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách khám, chữa bệnh (KCB) cho người nghèo. Ngay sau khi triển khai, mỗi năm có hàng chục triệu lượt người nghèo tại các vùng nghèo được hưởng lợi từ chính sách này. Việc triển khai thực hiện KCB cho người nghèo theo Quyết định số 139 của Thủ tướng Chính phủ đã thực hiện có hiệu quả, nhất là ở các vùng khó khăn. Gần 98% số người nghèo ở các tỉnh Tây Nguyên được cấp phát thẻ KCB người nghèo.
Năm 2004, tổng số kinh phí quỹ KCB cho người nghèo ở Tây Nguyên được cấp 109,8 tỷ đồng, năm 2005 được cấp 116,88 tỷ đồng. Năm 2004, 16 tỉnh miền núi phía bắc có 5,7 triệu người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số được thụ hưởng chính sách này (chiếm 33% tổng số dân trong vùng), số kinh phí Quỹ KCB cho người nghèo đã được giải ngân là 165 tỷ đồng. Trong năm 2005, ngân sách nhà nước phân bổ khoảng 162 tỷ đồng cho Quỹ KCB cho người nghèo của 13 tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long... Nhờ có quỹ này, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số đã được chăm sóc sức khỏe đầy đủ hơn, tốt hơn, cả ở tuyến tỉnh và tuyến trung ương, được tiếp cận với các dịch vụ y tế đã tăng lên đáng kể.
Tiếp bước truyền thống, từ ngày đầu thành lập nước, ngành y tế đã chủ động thực hiện phương châm phòng bệnh cho nhân dân theo hướng dự phòng tích cực. Bám sát chủ trương đó, trong suốt quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế, ngành y tế tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng từ các viện trung ương, khu vực đến các đội y tế dự phòng tuyến huyện. Từ đó, triển khai có hiệu quả công tác giám sát dịch tễ và các chương trình phòng, chống dịch, nhiều bệnh dịch nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi.
Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, hệ thống giám sát dịch bệnh tại cơ sở của Việt Nam tương đối hoàn thiện, ít nước trên thế giới có được. Việt Nam đã, đang thực hiện có hiệu quả 10 chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số dịch bệnh nguy hiểm và HIV/AIDS. Duy trì tỷ lệ hơn 90% số trẻ em dưới một tuổi được tiêm đầy đủ sáu loại vắc-xin phòng bệnh, thanh toán được bệnh bại liệt (từ năm 2000) đạt tiêu chuẩn loại trừ uốn ván sơ sinh theo tiêu chuẩn của Tổ chức y tế thế giới (năm 2005).
Năm 2003, Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới khống chế thành công dịch SARS, kinh nghiệm đó được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu, học tập. Cũng như nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cũng là nước bị dịch cúm gia cầm (H5N1) tiến công, bằng kinh nghiệm và hệ thống y tế cơ sở phát triển tốt (thiết lập và duy trì hệ thống cảnh báo sớm và xử lý dịch kịp thời; tăng cường giám sát phát hiện sớm ca mắc đầu tiên để khoanh vùng và xử lý ổ dịch) cho nên từ 14-11-2005 đến nay, mặc dù tình hình dịch cúm gia cầm, cúm A (H5N1) trên người tại các nước trong khu vực và thế giới vẫn đang diễn biến phức tạp nhưng tại nước ta không phát hiện thêm trường hợp mắc mới. Ngoài ra, ngành y tế bước đầu triển khai các biện pháp phòng, chống các bệnh không nhiễm trùng đang có xu hướng gia tăng như các bệnh tim mạch, đái tháo đường, tâm thần, tai nạn thương tích; thường xuyên phải khắc phục hậu quả của thiên tai, thảm họa, không để dịch bệnh xảy ra sau lũ, lụt.
Những năm gần đây, hệ thống các cơ sở y tế, nhất là hệ thống bệnh viện được củng cố và nâng cấp tương đối đều ở tất cả các tuyến, nhiều bệnh viện được cải tạo, xây mới (trong năm năm qua có 479 bệnh viện được đầu tư nâng cấp). Đến nay, cả nước có hơn một nghìn bệnh viện với 133.345 giường bệnh công lập, ước đạt 16,5 giường bệnh/ 10 nghìn dân, công suất sử dụng giường bệnh trong toàn quốc đạt 102%. Một số bệnh viện phấn đấu theo mô hình bệnh viện khách sạn (Bệnh viện phụ sản quốc tế Sài Gòn); hay bệnh viện đạt tiêu chuẩn ISO 9001-2000 (Bệnh viện đa khoa khu vực Thống Nhất Đồng Nai)... Đến nay ba trung tâm y tế chuyên sâu được hình thành và phát triển tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Thừa Thiên - Huế. Nhiều trang thiết bị hiện đại được trang bị góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị bệnh. Nhiều cơ sở đã có máy chụp cộng hưởng từ, máy chụp cắt lớp điện toán (CT Scanner), máy chụp mạch, máy gia tốc tuyến tính, tán sỏi ngoài cơ thể, siêu âm doppler mầu, phẫu thuật, xạ trị... hầu hết các bệnh viện tuyến tỉnh đều có X quang tăng sáng, siêu âm, thiết bị sinh hóa...
Hàng loạt các kỹ thuật cao cũng được các cơ sở y tế trong nước nghiên cứu, ứng dụng thành công trong điều trị các bệnh hiểm nghèo, như nong động mạch vành, mổ tim, mổ nội soi, điều trị bằng la-de, mổ ghép thận, gan... một số kỹ thuật đã tiếp cận được trình độ quốc tế. Đáng chú ý, phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm được ứng dụng thành công đã đem lại niềm vui, hạnh phúc cho hàng nghìn gia đình.
Ngành công nghiệp dược Việt Nam đã có bước phát triển khá, liên tục trong nhiều năm đạt mức tăng trưởng khá (hơn 10%/năm). Thuốc sản xuất trong nước ngày càng đa dạng về chủng loại, mẫu mã và nhất là chất lượng đã tương đương với các nước trong khu vực. Đến hết năm 2005, cả nước có 55 cơ sở sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP), trong đó có tám cơ sở đạt tiêu chuẩn GMP của Tổ chức Y tế thế giới, 42 cơ sở đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt kiểm tra chất lượng thuốc (GLP) và 41 cơ sở đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt bảo quản thuốc (GSP).
Doanh thu sản xuất đạt hơn 6.243 tỷ đồng, chiếm 46,5% về giá trị sử dụng. Bên cạnh việc củng cố, mở rộng thị trường trong nước, các doanh nghiệp dược Việt Nam đã quan tâm hơn thị trường các nước trong khu vực và thế giới (năm 2005 xuất khẩu thuốc đạt hơn 17 triệu USD). Bình quân sử dụng thuốc của người dân nước ta tăng dần qua các năm, từ 0,3 USD/người (năm 1990) lên 8 USD/người (năm 2005). Tỷ lệ thuốc giả, thuốc kém chất lượng trên thị trường giảm rõ rệt còn khoảng 0,18%, thấp hơn so với thế giới (0,5%)...
Bằng những nỗ lực đó, đến nay, các chỉ số tổng quan về sức khỏe người dân Việt Nam đều tốt hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân ở nước ta còn bộc lộ những yếu kém. Mạng lưới y tế cơ sở tuy đã từng bước được tăng cường, nhưng tại vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất trang, thiết bị, đội ngũ cán bộ có chuyên môn còn thiếu. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế còn có mặt bất cập, một số chính sách về y tế không còn phù hợp nhưng chậm được sửa đổi hoặc bổ sung; đầu tư của Nhà nước cho y tế còn thấp, phân bổ và sử dụng nguồn lực chưa hợp lý. Đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, cơ cấu bất hợp lý. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế bên cạnh việc đem lại những cơ hội thuận lợi, đồng thời cũng đặt nước ta trước những nguy cơ lây truyền các bệnh dịch nguy hiểm và những thách thức trong việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao trong y tế. Từng bước khắc phục những khó khăn và thách thức, ngành y tế phấn đấu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân tốt hơn, thể hiện bản chất tốt đẹp của nền y tế xã hội chủ nghĩa.
Nguồn: nhandan. org.vn 23/4/2006








