Cây khèn trong đời sống ở bản làng Hmông
Sinh sống trong điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, song người dân Hmông vẫn lạc quan yêu đời. Họ là một dân tộc có bề dày lịch sử, có bản sắc văn hoá riêng; và một trong những nét văn hoá đặc sắc, tiêu biểu của đồng bào chính là cây khèn. Cây khèn không chỉ là một nhạc cụ đơn thuần mà nó còn giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Hmông, nhất là trong các nghi lễ tang ma.
Người Hmông cho rằng, tiếng khèn cất lên có thể thay lời người sống nhắn nhủ, tâm sự cùng người chết, chỉ đường cho người chết tìm về với tổ tiên, ông bà…
Các cụ già kể lại rằng: Ngày xưa, ở một vùng đất nọ, để có thể tồn tại và phát triển, người Hmông đã phải đánh nhau với cả Ngọc Hoàng. Đứng đầu vùng đất đó là một thủ lĩnh rất khoẻ mạnh và dũng cảm, dân làng ai cũng mến yêu. Vị thủ lĩnh có 6 người con trai. Khi ông lâm bệnh nặng, biết không qua khỏi, ông liền gọi các con lại, đưa cho mỗi người một đoạn ống trúc và dặn khi ông chết, không ai được than khóc mà chỉ lấy cái ống này thổi vào đấy thành tiếng thay tiếng khóc, có như vậy Ngọc Hoàng mới không biết là thủ lĩnh chết để xuống đánh chiếm vùng đất của người Hmông.
Sáu người con làm theo lời dặn, quả nhiên thực hiện được ý nguyện của người cha. Từ đó, các gia đình trong vùng khi có người chết đều dùng ống trúc thay tiếng khóc than. Thế nhưng, phải 6 người mới đủ để thổi thành bài, trong khi đó số lượng con trai trong mỗi nhà lại khác nhau nên người ta đã gộp cả 6 ống trúc cắm vào một đoạn gỗ có bầu phía dưới. Từ đó, chỉ một người cũng có thể thổi được các bài khèn… Và từ khi xuất hiện đến nay, cây khèn của người Hmông chỉ sử dụng trong các nghi lễ tang ma mà thôi.
Trong tất cả các bước của tang lễ, dù là ma khô hay ma tươi thì cây khèn đều giữ vai trò chủ đạo, điển hình như các bài: chỉ đường, tắt thở, mời cơm sáng, mời cơm trưa. Ngoài ra, người ta còn thổi các bài phúng tiền vàng hoặc vật nuôi của con cháu trong nhà, anh em họ hàng để người chết mang theo làm vốn ở cõi âm phủ. Cứ một lần như thế, thầy khèn phối hợp với thầy trống (dẫn nhịp) lại thổi bài nhận lễ và dâng lễ (khèn và trống của người Hmông luôn đi đôi với nhau). Đặc biệt, trong khi thổi, các thầy khèn còn phải múa theo bài. Thầy khèn vừa thổi vừa múa quanh trống hay chui dưới đòn treo trống. Khèn được sử dụng như một hiệu lệnh chỉ dẫn thực hiện trình tự các bước trong tang lễ.
Cây khèn không chỉ là một loại nhạc cụ đơn thuần mà nó đã trở thành một loại nhạc cụ thiêng của đồng bào Hmông. Và bởi tiếng khèn được coi là tiếng khóc than, tâm sự giữa người sống với người chết, giữa cõi trần gian và thiên đàng nên khi truyền dạy các bài khèn cũng được thực hiện nghiêm ngặt, kín đáo. Đồng bào thường mang theo khèn lên nương, vừa luyện tập vừa thổi để vơi bớt nỗi nhọc nhằn trong những giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi… Và cây khèn cũng có khi được mang ra cho các chàng trai trổ tài trong các ngày lễ, tết hay các phiên chợ vùng cao.
Hiện nay, ở một số nơi, cây khèn lại xuất hiện như một thứ nhạc cụ đơn thuần dùng đệm cho hát dân ca, hát giao duyên hay thổi những bài hát mối… Chính vì để cho cây khèn “đi quá xa” với ý nghĩa ban đầu của nó nên đã khiến cho không ít các văn nghệ sĩ ví cây khèn, tiếng khèn như là thứ nhạc cụ để trai gái tự tình, giao duyên… Điều đó không chỉ làm mất đi tính thiêng của cây khèn mà còn làm mọi người có cái nhìn sai lệch về ý nghĩa ban đầu của nhạc cụ đó. Chính vì vậy, cây khèn phải được sử dụng đúng lúc, đúng nơi. Có như thế mới thấy hết giá trị, vai trò của nó trong đời sống của đồng bào.
Và khi sử dụng cây khèn, một loại nhạc cụ đặc biệt của đồng bào Hmông đúng với ý nghĩa, chức năng ban đầu của nó cũng chính là góp phần giữ gìn và bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của tộc người Hmông.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 88, 3/2006







