Từ nhỏ, Gauß đã nhiều lần làm cha mẹ và thày giáo kinh ngạc về khả năng tính toán, tương truyền ông đã giúp cha rất nhiều về việc kiểm tra sai sót trong sổ sách. Theo chính Gauß kể lại sau này, bà Gauß không nhớ rõ ngày sinh của con mà chỉ còn biết là nhằm thứ tư, tám ngày trước lễ Thăng Thiên (Himmelfahrt/Ascension) năm đó. Thế là cậu bé Gauß nhân dịp này đã tìm ra công thức xác định ngày lễ Phục Sinh cho bất cứ một năm nào đó mà đến ngày nay vẫn còn sử dụng (tuy vậy do sai lệch của Nguyệt lịch - không phải Âm lịch - mà công thức của Gauß chỉ đúng đến năm 4200). Từ những ngày đầu đi học, Gauß đã tỏ ra rất giỏi về toán và cổ ngữ. Một câu chuyện thường được lưu truyền là cách giải tài tình của cậu bé Gauß cho bài toán tính tổng số các số nguyên từ 1 đến 100: Gauß nhận xét đó chính là tổng số của các cặp 1+100, 2+99, ..., mà có cả thảy 50 cặp như vậy (theo E.T. Bell trong quyển sách nổi tiếng Men of Mathematics, 1937, thì thật ra Gauß đã phải giải bài toán khó hơn là tính tổng số 81297 + 81495 + 81693 +... + 100899, với cùng nguyên tắc như trên). Năm 11 tuổi, vì hoàn cảnh rất chật vật nên cha Gauß miễn cưỡng nghe theo trường mà cố gắng cho cậu học tiếp ở Trung học Catharineum ở Braunschweig. May mắn là từ 1792 trở đi, công tước Karl Wilhelm ở Braunschweig khi biết đến tài năng của Gauß đã trợ cấp cho cậu theo học Collegium Carolinum (nay là Đại học Kỹ Thuật Braunschweig). Trong ba năm học tại đây, Gauß vẫn đam mê số học và đồng thời cũng rất giỏi về cổ ngữ và sinh ngữ. Thời gian này, Gauß còn khám phá ra qui luật Bode (tỉ lệ gần đúng khoảng cách đến mặt trời của các hành tinh trong Thái dương hệ) một cách độc lập và mở rộng định lý nhị thức cho các số mũ hữu tỉ. Được trợ cấp tiếp tục, năm 1795 Gauß lên học Đại học Göttingen, tuy vẫn chưa dứt khoát sẽ chuyên ngành về toán học hay ngữ văn. Năm sau, chưa đầy 19 tuổi, Gauß đã khám phá ra cách dựng đa giác đều 17 cạnh bằng thước kẻ và com-pa và từ đó quyết tâm theo đuổi toán học (cùng thiên văn và vật lý). Cũng nên biết là các nhà toán học từ thời Euklid (300 năm trước CN) đã bỏ ra nhiều công sức nghiên cứu cách dựng các đa giác đều chỉ bằng thước kẻ và com-pa. Họ tìm ra rất sớm cách dựng hình vuông, tam giác đều và ngũ giác đều, thêm vào đó là các đa giác đều có số cạnh gấp đôi các hình này, cũng như đa giác đều 15 cạnh (kết hợp ngũ giác đều và tam giác). Cả hơn 2000 năm sau đó mới có Gauß khám phá ra cách dựng một đa giác đều khác là hình 17 cạnh (sau này trong Disquisitiones Arithmeticae, 1801, Gauß chứng minh là có thể dựng được các đa giác đều có số cạnh là số nguyên tố Fermat mà 17 là một). Cũng năm này, Gauß còn tìm ra luật nghịch đảo bình phương, một kết quả cơ bản của lý thuyết số (đại số modula) và định lý phân bố các số nguyên tố. Một năm sau khi trở về Braunschweig, 1799, Gauß trình luận án tiến sĩ tại đại học Helmstedt (thuộc Braunschweig), trong đó ông đưa ra chứng minh đầu tiên cho Định lý cơ bản của đại số học (đa thức bậc ntrên trường đại số đóng như số phức chẳng hạn có đúng nnghiệm trong đó). Bên cạnh rất nhiều chứng minh khác của các nhà toán học đời sau, chính Gauß đã đưa ra thêm 3 cách chứng minh khác (lần cuối vào dịp kỷ niệm 50 năm luận án của ông). Cũng nên nói thêm rằng chính công trình này của Gauß từ đó đã đưa các số phức và cách biểu diễn số phức (mặt phẳng Gauß) vào ứng dụng rộng rãi trong khoa học kỹ thuật. Được tiếp tục giúp đỡ tài chính bởi công tước Karl Wilhelm mà Gauß rất biết ơn và gắn bó, ông lưu lại nghiên cứu toán học ở Braunschweig một cách độc lập. Thời gian này, Gauß hoàn thành bộ Disquisitiones arithmeticae, một công trình toán học sâu rộng nhất của thời bấy giờ. Trong đó, ông trình bày tất cả các kết quả tìm được một cách có hệ thống và cô đọng, chứng minh và giải đáp các vấn đề then chốt, cùng lúc lại phác họa nhiều chiều hướng nghiên cứu mà đôi khi đến tận ngày nay vẫn còn là thử thách. Nhiều tên tuổi toán học như Jacobi và Abel chẳng hạn, nhìn nhận là đã phát triển lý thuyết hàm số elliptic của họ chỉ nhờ một lời gợi ý nhỏ trong Disquisitiones. Năm 1807, khi mới 30 tuổi, Gauß được mời về đại học Göttingen nhận chức giáo sư thiên văn học. Thật ra, thoạt đầu ông cũng lưỡng lự, nhưng vào đúng lúc này vị công tước chuộng khoa học xưa nay giúp đỡ ông lại tử trận trong chiến tranh Napoleon nên vì sinh kế ông đã nhận lời. Rất nhiều lần trước và sau đó, Gauß được các trường đại học lớn (và dồi dào tài chính) hơn như Berlin, St. Petersburg, Wien hay Leipzig mời làm giáo sư, nhưng ông từ chối tất cả, ở lại Göttingen giảng dạy và nghiên cứu cho đến khi lìa trần. Ở đó, sau này ông còn làm giám đốc đài thiên văn Göttingen mới được xây dựng. Gauß không chỉ xứng đáng là ông hoàng của toán học như các nhà toán học đương thời và đời sau xưng tụng mà còn uyên bác và có những phát hiện đột phá trong nhiều ngành khoa học khác nữa - như cổ kim chỉ có Archimedes, Galilei và Newton trước ông. Thật vậy, ngoài toán học,Gauß còn nghiên cứu về trắc địa, vật lý (điện từ, từ trường, địa từ), thiên văn và quang học. Năm 24 tuổi, ông đã nổi tiếng vì tính được chính xác quỹ đạo của thiên thể Ceres. Trong thời gian thiên thể này bị che khuất, nhiều nhà thiên văn tên tuổi đã dự đoán nơi tái xuất hiện của Ceres trên bầu trời nhưng đều sai. Phương pháp tính quỹ đạo này của Gauß được công bố năm 1809 (lý thuyết chuyển động của các thiên thể nhỏ chịu ảnh hưởng hấp dẫn của các thiên thể lớn hơn) và được sử dụng cho đến ngày nay (chỉ sửa đổi đôi chút để đem vào máy tính). Cùng lúc ông còn đưa ra cách tính bình phương cực tiểu và phân bố Gauß để giảm ảnh hưởng sai sót trong số liệu, giờ vẫn còn là căn bản cho các ngành khoa học thực nghiệm. (Nhờ công trình thiên văn này, Gauß được trao tặng giải thưởng Lalande của viện Hàn lâm khoa học Pháp, sau đó ông còn được Nga hoàng mời về làm giám đốc đài thiên văn của viện Hàn Lâm Petrograd, cũng như các đại học Berlin và Wien mời cộng tác, nhưng ông đều chối từ.) Hệ thống quang học mà Gauß áp dụng trong các kính viễn vọng thiên văn hay trắc địa chính là nguyên tắc của ống kính máy ảnh chúng ta vẫn dùng. Ông mở đường cho khoa trắc địa với nhiều đóng góp quan trọng và đã tự thực hiện công cuộc đo đạc vương quốc Hannover. Trong dịp này, ông phát minh thiết bị heliotrope cho phép đo chính xác góc và một điểm ở xa, và đưa ra cách dùng tọa độ cong (curvilinear coordinates). Cùng với Wilhelm Weber, một nhà vật lý và là bạn đồng hành nghiên cứu về điện từ và từ trường trái đất trong nhiều năm, ông đã phát minh và thực hiện hệ thống điện tín đầu tiên trên thế giới. Hai người còn khám phá ra định luật Kirchhoff trong vật lý. Ngoài ra, Gauß còn phát triển hệ thống đơn vị từ trường, mở rộng định luật hấp dẫn Newton cho các lực điện từ và đặt nền móng cho lý thuyết thế vị (potential theory), mở đầu cho ngành vật lý toán. Ngược lại, công cuộc trắc địa cho vương quốc Hannoverđã dẫn dắt Gauß phát triển thêm phân bố Gauß và nhất là nghiên cứu về hình học vi phân trong toán học. Ông nghiên cứu các đường geodesics (đường ngắn nhất trên các bề mặt cong), đưa ra khái niệm độ cong của một bề mặt (độ cong Gauß) và chứng minh là độ cong này là một tính chất nội thể của bề mặt, không phụ thuộc vào cách lồng bề mặt ấy vào một không gian nào đó. Những năm cuối đời, Gauß còn đặt nền mống cho ngành toán bảo hiểm mà lúc ấy còn phôi thai. Ông cũng theo dõi và nghiên cứu về tài chính, và khác với hầu hết các nhà khoa học đương thời, biết đầu tư rất khéo léo vào các dự án kinh tế thời bấy giờ (Nga hoàng có lần ngỏ ý mời Gauß sang làm bộ trưởng tài chính nhưng ông cũng từ chối). Ngày nay - ngoài toán học ra - tên ông còn lưu lại trong rất nhiều định luật, phương pháp và cả hằng số hay đơn vị nữa. Ngoài ra, Gauß còn có ý tưởng nghiên cứu hình học phi Euklid rất sớm, tuy không công bố rộng rãi. Tương truyền, khi nghe Wolfgang Bolyai, bạn học từ những ngày Göttingen, loan báo về khám phá của con mình là János Bolyai về hình học phi Euklid, ông thành thực bảo là "đã tự nghĩ đến từ lâu" nên đã làm tình bạn sứt mẻ một thời gian. Chắc vì bài học đó, sau này, khi theo dõi nghiên cứu khác của Lobachevsky về hình học phi Euklid, Gauß rất quan tâm ủng hộ. Đến những năm cuối đời, học trò cuối cùng của ông là Bernhard Riemann đưa ra quan điểm kết hợp các loại hình học (ở mỗi nơi có thể mang tính chất khác nhau nhưng kết hợp với nhau thành một khối mà sau này là cơ sở toán học cho thuyết tương đối của Einstein), Gauß đã tích cực khuyến khích Riemann đệ trình làm luận án Habilitation. Gauß có khả năng làm việc có một không hai. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất như khi bà vợ đầu của ông (và đứa con thứ ba) mất năm 1809 hay những năm tháng đi đo đạc lãnh thổ Hannover, ông vẫn nghiên cứu và đăng tải hàng chục bài nghiên cứu và trao đổi với các khoa học gia khác. Tuy vậy ông rất thận trọng, chỉ công bố kết quả nghiên cứu khi đã thật sự chắc chắn, có khi cả chục năm sau khi bắt đầu tìm ra lời giải. Do đó mà các nhà toán học đồng thời đôi khi cảm thấy ông có vẻ không hợp tác tích cực. Nhật ký và bản thảo làm việc của ông còn ghi lại vô số kết quả chưa ai biết đến (hình học phi Euklid đã đề cập là một thí dụ). Tuy vậy, Gauß vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến khắp các nhà toán học thời bấy giờ. Nhà toán học trẻ tuổi Galois, trước buổi đọ kiếm quyết định cuộc đời, đã khẩn khoản yêu cầu chuyển bản thảo công trình của mình cho Gauß. Gauß thích cuộc sống trầm lặng, bình thường không tham gia hội hè đình đám nhiều ở Göttingen, mà chỉ thích đi dạo và vào thư viện trường đọc sách. Thời bấy giờ tình hình chính trị khá bất ổn và kinh tế suy sụp nhưng ngược lại, khoa học lúc đó phát triển khá mạnh. Người ta mở rộng các trường đại học, việc trao đổi thảo luận với các nhà khoa học trong ngoài nước trở nên phổ biến, ngay cả ngành thiên văn cũng được dư luận chú ý tới. Gauß chăm sóc việc xây đài thiên văn mới ở ngoại thành Göttingen và từ năm 1816 trở đi ông sống và làm việc luôn ở đó (chuyện này cũng có lợi về vệ sinh, vì khi bùng nổ bệnh dịch tả, ông bảo là "đài thiên văn của tôi là nơi bảo đảm sức khỏe nhất ở Göttingen!"). Tuy suốt đời làm việc với khoa học, nhưng Gauß cũng thích văn chương, nhất là đọc các tác phẩm của Jean Paul, một nhà văn nổi tiếng đương thời mà ông rất hâm mộ. Gauß đọc nhiều và học nhiều, những năm cuối cuộc đời ông còn học thêm thành thạo tiếng Nga. Sau khi Gauß mất, một người bạn ông là giáo sư sinh học Rudolph Wagner được chấp thuận mổ óc ông để tìm hiểu bộ óc thiên tài này. Đến nay bộ óc của Gauß vẫn còn được giữ nguyên vẹn ở trường đại học Göttingen. Kết quả không có gì đặc biệt, đúng như Wagner trước đó đã tả lại người bạn của mình như sau "Nhìn Gauß người ta có cảm giác nhận biết đây đúng là ông hoàng của khoa học, nhưng điều này không bao giờ lộ ra phong cách bề ngoài của ông". Tham khảo: Walter Bühler: Gauß – eine biographische Studie, Springer Verlag 1987
Felix Klein: Vorlesungen über die Entwicklung der Mathematik im 19.Jahrhundert, Springer.
Ngoài ra:http://www.gaussjahr.de/index_en.php http://www.math.uni-goettingen.de/Personen/Bedeutende_Mathematiker/ http://www.math.uni-hamburg.de/math/ign/gauss/gaussbio.html |