Cảng biển Vân Đồn qua các cứ liệu khảo cổ học
Phát hiện thêm một loạt các bến bãi tại vùng cửa sông Bạch Đằng
Các công trình nghiên cứu Vân Đồn trước đây mới chỉ tập trung nghiên cứu các bến bãi trong vùng hải đảo, chưa thấy ai quan tâm tới vùng cửa các con sông nhánh của sông Bạch Đằng đổ vào vịnh Hạ Long trong địa phận tỉnh Quảng Yên xưa. Nhờ phát hiện di chỉ Đượng Hạc (Tân An) của nhà Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh năm 1998 chúng tôi đã mở rộng cuộc điều tra ra vùng cửa các sông nhánh của sông Bạch Đằng: như sông Ông Mai, sông Bến Giang, sông Cái… Thật bất ngờ, tại khu vực địa lý của các xã Hoàng Tân và Tân An đều có các bãi gốm với đầy gốm men có niên đại thế kỷ XIII-XIV và gốm sành của các thời đại. Trên nhiều bến thuyền như Đượng Hạc, Hòn Dáu, Seo Bè… còn tìm thấy dấu vết của kiến trúc thời Trần. Không nghi ngờ gì nữa, thời Trần sông Bạch Đằng là con đường giao thông huyết mạch nối liền biển cả với đất liền, vì thế nên mới có chiến công dìm thuyền quân Nguyên xâm lược trên dòng sông này.
Phát hiện này đã góp phần làm thay đổi quan niệm về Vân Đồn gần một thế kỷ qua khi người ta cho rằng, hệ thống bến bãi của thương cảng Vân Đồn chỉ nằm trong vùng biển và hải đảo. Việc phát hiện ra hệ thống bến bãi vùng cửa sông Bạch Đằng còn làm thay đổi hàng loạt các vấn đề liên quan đến lịch sử ngoại thương, lịch sử quân sự, lịch sử hàng hải…
Những tín hiệu về Vân Đồn là một cảng thị trên con đường lụa trên biển
![]() |
| Bản đồ vùng biển Vân Đồn. |
Tuy nhiên cũng cần hiểu thêm rằng, không phải tất cả các cảng thị trên con đường tơ lụa đều có mặt cả 5 loại gốm nói trên. Do vậy, nếu nói Vân Đồn là một cảng thị của con đường tơ lụa thế kỷ IX-X không phải là không có bằng chứng.
Phải chăng thế kỷ thứ XIV là thời kỳ hưng thịnh nhất của thương cảng Vân Đồn?
Trong các công trình nghiên cứu về Vân Đồn trước đây các học giả đều viết “trên các bến bãi ta còn tìm thấy các mảnh gốm của các thời đại Lý - Trần – Lê”. Nhưng, nói một cách chính xác hơn thì tại tất cả các bến bãi trong một vùng rộng lớn của thương cảng mà chúng tôi đã đi qua, đồ gốm Lý là cực kỳ hiếm, gốm men lam cũng tìm thấy rất ít. Trên các bến bãi chủ yếu là gốm men thời Trần thế kỷ XIV và gốm sành như chúng tôi đã nói trên.
Sự vắng mặt của đồ gốm hoa lam trên các bến bãi của thương cảng được chúng tôi hiểu theo hai nghĩa sau:
- Từ thế kỷ thứ XIV trở về trước vùng cửa sông Quảng Yên là tuyến giao thông chính để chuyên chở hàng hoá từ đất liền ra Vân Đồn và ngược lại. Đến thế kỷ thứ XV tuyến đường thuỷ này không còn thích hợp nữa, người ta có thể chuyển sang tuyến sông Thái Bình vào đất liền. Sưu tập gốm hoa lam Cát Bà là một tín hiệu không thể không bổ ích. Do vậy, cần có các cuộc điều tra tại các vùng cửa sông, nay thuộc địa phận Hải Phòng.
- Dưới thời Trần việc kiểm soát hàng hoá ra vào Vân Đồn rất chặt chẽ, thêm nữa kỹ thuật hàng hải thời bấy giờ chưa cho phép có những con tàu vừa đi trên sông vừa đi trên biển nên đồ gốm được chuyên chở đến vùng cửa sông để rồi chuyển qua các thuyền biển chờ sẵn tại đó. Sau đó, hàng hoá được các thuyền đi biển chuyển qua tàu buôn nước ngoài đỗ ngoài các đảo. Sự chuyên chở phức tạp như vậy khiến cho đồ gốm vỡ nhiều nên mảnh của nó vẫn còn đầy trên các bến bãi. Qua thế kỷ XV có thể do những tiến bộ của ngành hàng hải tàu biển có thể đi vào cảng sông dễ dàng, thêm vào đó là chính sách khuyến khích ngoại thương của nhà Lê nên tàu thuyền nước ngoài có thể được phép đi sâu vào các cảng sông nội địa nhận hàng. Vân Đồn chỉ là nơi nhà nước tiến hành làm thủ tục hải quan, hàng hoá không phải trung chuyển từ các tàu nhỏ của Đại Việt sang tàu buôn nước ngoài đến mua hàng như trước đây nên không bị vỡ hỏng nhiều như dưới thời Trần. Đó có thể là những lý do khiến ta thấy sự có mặt không nhiều gốm hoa lam thế kỷ XV-XVI trên các bến bãi Vân Đồn.
Sự phồn vinh của Vân Đồn thời Trần còn được minh chứng bằng số lượng men ngọc của lò Long Tuyền, Trung Quốc. Có thể nói cho đến nay không có một di chỉ nào trên đất nước ta phát hiện nhiều gốm men ngọc Trung Quốc nhiều hơn ở Cống Đông.
Như vậy, hiểu theo cách nào đi nữa thì việc khẳng định thời kỳ phồn thịnh nhất của Vân Đồn vào thời Trần không phải là không có lý để cho ta ủng hộ. Nhận định này càng được ủng hộ hơn với việc phát hiện thêm rất nhiều dấu vết chùa tháp thời Trần.
Phát hiện thêm một hệ thống chùa tháp thời Trần dày đặc ở vùng ven biển và hải đảo
![]() |
| Những mảnh gốm vỡ còn lại ở Vân Đồn. |
- Vùng cửa sông: Đượng Hạc, Hòn Dáu, Seo Bè và một địa điểm ven sông Ông Mai. (Theo lời ông Giám đốc Bảo tàng Quảng Ninh).
- Vùng ven vịnh Cửa Lục: khu vực bến Bang, đảo Tuần Châu.
- Khu vực hải đảo: Cho đến nay mới chỉ phát hiện được kiến trúc Phật giáo thời Trần trên đảo Cống Đông. Trước đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện trên đảo Cống Đông 5 ngôi chùa và nền móng của một ngọn bảo tháp. Trong đợt này chúng tôi phát hiện thêm được 3 di tích khác: hai công trình nằm phía tây đảo Cống Đông là vụng Chùa Cát, vụng Chuồng Bò và dấu vết của một ngôi chùa trên đảo Cống Tây có tên gọi đền Giếng. Tại các địa điểm trên, chúng tôi đã tìm thấy vật liệu kiến trúc: ngói, tượng trang trí, ngói có trang trí hoa văn (vụng Chuồng Bò, Chùa Cát…), bệ cánh sen (Hòn Dáu), tháp đất nung (Đượng Hạc, Seo Bè, Tuần Châu…) mang phong cách nghệ thuật Trần khá điển hình.
Trước đây, tại Quảng Ninh chúng ta đã biết đến hai trung tâm Phật giáo lớn thời Trần là: Yên Tử và Quỳnh Lâm trên núi cao. Nay chúng ta lại thấy them những chùa tháp mọc như nấm trên vùng ven biển và hải đảo. Cá biệt như Cống Đông, mật độ chùa tháp thời Trần dày đặc tới mức có thể nói không một nơi nào trên đất nước ta có mật độ chùa tháp dày đặc như ở đây.
Việc nhà Trần xây dựng một hệ thống chùa tháp tại vùng biển và hải đảo là một vấn đề rất cần được nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn về ý nghĩa của nó.
Sự có mặt của gốm men ngọc Trung Quốc thời Minh
Như chúng ta đã biết, thời Hồng Vũ nhà Minh đã ra lệnh cấm tàu buôn Trung Quốc ra nước ngoài. Lệnh này đã gây nên sự hụt hẫng lớn nhu cầu đồ gốm Trung Quốc trên thị trường gốm thế giới bấy giờ, tạo ra cái gọi là “khoảng trống Minh” (Minh gap). Nhờ cơ hội đó mà gốm Việt Nam ở cả miền bắc và miền trung, gốm Thái Lan… nhảy vào chiếm lĩnh thị trờng. Tuy vậy, không phải đồ gốm Trung Quốc thời Minh hoàn toàn vắng bóng trên thị trường gốm thế giới. Những phát hiện gốm thời Minh ở nhiều khu vực trên thế giới gần đây và phát hiện của chúng tôi sự có mặt của gốm men ngọc thời Minh ở Cống Đông cũng như một số bến khác đã góp thêm tư liệu chứng tỏ bằng nhiều cách gốm Trung Quốc vẫn đến được thị trường gốm thế giới. Đồ gốm vẫn vượt qua mọi hàng rào ngăn trở để nối những nhịp cầu giao thương.
Quảng Ninh có thể là một vùng sản xuất gốm không?
Tại rất nhiều địa điểm như Đượng Hạc, Tân An, thôn Đông Vạn Ninh… chúng tôi đều gặp những dấu vết nền lò nung, mảnh tường lò bị thuỷ tinh hoá, con kê dạng hình lăng trụ… Nhưng chồng dính thì chưa tìm thấy. Trong số tất cả các dấu tích được coi là lò nung có thể có một số nơi là dấu tích của lò nung vôi, song sự có mặt của con kê trên một số nền lò hình chữ nhật đất bị nung chay đỏ ở Đượng Hạc, thông đông Vạn Ninh… thì khó có thể coi chúng là công cụ dùng cho công nghệ nung vôi.
Để có thể khẳng định Quảng Ninh là một trung tâm sản xuất gốm thời Lý - Trần – Lê còn phải tiếp tục củng cố thêm bằng chứng, song nếu nói cha ông ta đã làm gốm xuất khẩu ngay trong khu vực thương cảng là điều không phải đã không xẩy ra.
Một mùa điền dã không thể nào nói hết được những thông tin nhiều mặt của thương cảng Vân Đồn. Vả lại, nội dung của thông báo này mới được rút ra từ sổ tay điền dã. Hy vọng sau khi chỉnh lý hiện vật và có thời gian để suy ngẫm chúng tôi sẽ có thêm được những nhận thức mới hơn thế hệ những người mở lối cho “con thuyền” của chúng tôi hành trình về lại Vân Đồn.
Nguồn: Xưa và Nay, số 131, 1/2003,









