Cần cải cách giáo dục toàn diện
Tham dự hội thảo góp ý cho dự thảo (lần thứ 14) Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009-2020vào ngày 17/2/2009 tại trụ sở Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam vừa qua có rất đông các nhà khoa học, chuyên gia tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nước nhà. Và cũng như trước đây, tuy rất thất vọng với cách làm giáo dục hiện nay, họ vẫn nhiệt tình góp ý cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chính phủ với mong muốn giáo dục phát triển đáp ứng được yêu cầu và mong mỏi của toàn xã hội.
Liên hiệp hội Việt Nam đã góp ý cho: Chiến lược giáo dục giai đoạn 2001-2010; Luật giáo dục sửa đổi, bổ sung (2001); Báo cáo tình hình giáo dục của Chính phủ (2004); Đề án kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học và các viện nghiên cứu (2002); Chương trình các môn lý luận chính trị (2008); Đề án xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa phổ thông mới (2006-2008); Chương trình giáo dục mầm non (2004-2008); Chương trình chuẩn phát triển trẻ từ 5-6 tuổi (2008); Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đào tạo giai đoạn 2008-2012. |
Chưa xong cái cũ đã xây cái mới
Các đại biểu dự hội thảo đều tỏ ra bất bình khi Chiến lược giáo dục giai đoạn 2001-2010 còn một năm nữa mới kết thúc, chưa được sơ, tổng kết mà ngành giáo dục đã định “gối đầu” Chiến lược mới ngay từ năm 2009. Phần đánh giá thực trạng giáo dục, theo các nhà khoa học, vẫn chưa đầy đủ.
GS.TSKH Lê Du Phong cho rằng nếu bức tranh của nền giáo dục nước nhà đúng như trong dự thảo thì cũng chưa có gì bức xúc với xã hội để người dân phải lên án quyết liệt như thời gian qua. “Cần dũng cảm hơn, trung thực hơn trong việc đánh giá thực trạng nền giáo dục hiện nay, đặc biệt là nội dung và chương trình giảng dạy; chất lượng giảng dạy và học tập; chính sách với giáo dục và đào tạo; năng lực tổ chức, quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo”.
Còn TS Chu Hảo nói: “Ngành giáo dục vừa đưa ra dự thảo về chuẩn cho trẻ 5 tuổi, trong đó yêu cầu trẻ phải nhận biết được những tình cảm bực mình, sung sướng của người khác, vậy sao chính Bộ Giáo dục và Đào tạo lại không cảm nhận được sự bức xúc của xã hội đối với bản chiến lược này?”.
GS.TS Phạm Tất Dong nhận xét việc dự thảo Chiến lược rất tùy tiện trong chọn thời điểm (cái cũ chưa xong đã làm cái mới), tùy tiện về xác định các mục tiêu, các chỉ tiêu thì đá nhau. Theo ông Dong, nếu muốn có chiến lược mới cần đánh giá chiến lược cũ. Việc nhìn nhận đánh giá giáo dục trong dự thảo chủ yếu qua lăng kính của ngành giáo dục, vai trò của các lực lượng khác không thấy trong văn bản này.
GS.TSKH Đỗ Sanh cho rằng trước khi xây dựng chiến lược cần làm rõ “ta đứng ở đâu trong thế giới mà ta muốn hội nhập, ta mong muốn điều gì và ta có thể làm được gì với cách thức thế nào để đạt được”.
Thiếu triết lý giáo dục
Nhận xét về nội dung dự thảo Chiến lược đã qua 14 lần chỉnh sửa, các nhà khoa học đều cho rằng nó vẫn mang dáng dấp một bản kế hoạch của ngành giáo dục, và quan trọng nhất là nó thiếu hẳn một triết lý.
Do chưa theo quan điểm của Đảng về xã hội học tập, nên theo GS.TS Phạm Tất Dong, bản dự thảo chưa làm rõ giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội nên chưa đề cập đến vai trò của các lực lượng xã hội như doanh nghiệp, cơ sở giáo dục ngoài nhà trường ... trong việc chia sẻ trách nhiệm đào tạo con người, nhân lực.. Giáo dục cho người lớn là một ngành, một phân hệ trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhưng dự thảo chỉ hướng đến giáo dục ban đầu, coi nhẹ giáo dục tiếp tục.
GS Hồ Ngọc Đại cho rằng “nền giáo dục trước đây là con đẻ của nền kinh tế tiểu nông, chiến lược giáo dục mới phải đào tạo được những con người thật, biết sống thật bằng lao động của chính mình, trong đó khuyến khích lao động trí óc”. Còn theo GS.TSKH Đỗ Sanh, chiến lược giáo dục gắn với quá trình phát triển của con người trong phát triển cộng đồng. Có thể chia giáo dục làm 2 giai đoạn: Giai đoạn vị thành niên, giáo dục tri thức và khuôn phép; giai đoạn thành niên: giáo dục kỹ năng lao động và hợp tác, trách nhiệm với cộng đồng. “Cần làm cho xã hội thấy đại học không phải là con đường duy nhất cho thanh niên sau tốt nghiệp THPT” – ông Sanh nhấn mạnh.
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nói: “Chiến lược giáo dục là một trong nhiều chiến lược sẽ được xây dựng và triển khai, trong đó chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 là quan trọng nhất. Vì thế chiến lược giáo dục phải đồng bộ với các chiến lược khác, góp phần hiệu quả vào sự phát triển kinh tế-xã hội”.
TS Đặng Ngọc Dinh khuyến nghị “đừng có chính trị hóa chiến lược để rồi xa rời thực tế, không đáp ứng được nhu cầu xã hội”.
Cải cách giáo dục toàn diện
Thất vọng về dự thảo Chiến lược, một lần nữa trên diễn đàn của Liên hiệp hội Việt Nam , các nhà khoa học khẩn thiết đề nghị cải cách giáo dục.
TS Chu Hảo cho biết: “Trong nửa cuối thế kỷ trước, chúng ta tiến hành 4 cuộc cải cách chính thức. Cuộc cải cách đầu tiên năm 1945, ngay sau khi giành được độc lập, với chương trình Việt ngữ hóa giáo trình của tất cả bậc học. Cuộc cải cách lần hai (năm 1950) chuyển từ hệ tú tài phân ban cũ sang hệ phổ thông 9 năm. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1956), cuộc cải cách lần 3 chuyển từ hệ phổ thông 9 năm sang hệ phổ thông 10 năm với chương trình và sách giáo khoa các cấp giống như của Liên Xô cũ. Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1980, chúng ta bắt đầu cuộc cải cách lần thứ 4 để thống nhất chương trình phổ thông 12 năm trên toàn quốc. Bắt đầu từ thời kỳ Đổi mới đến nay, chưa có một cuộc cải cách nào được chuẩn bị một cách có hệ thống và được công bố chính thức. Các đề án đổi mới liên tiếp được Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai vội vã, chắp vá, thiếu khoa học, kém hiệu quả và rất lãng phí...”. Theo ông Hảo, đã đến dự thảo lần thứ 14 mà vẫn còn nhiều ý kiến phản bác thế này thì “Bộ nên dừng việc soạn thảo Chiến lược để tránh mất uy tín hơn”.
GS Hoàng Tụy nói: “Giáo dục của chúng ta đang khủng hoảng, việc cần kíp là nhận diện rõ tình trạng đó để thấy sự cấp bách phải cải cách toàn diện, một sự lột xác của giáo dục thay vì mất thì giờ làm thêm một dự thảo nữa”.
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng: “Yêu cầu cải cách giáo dục đã được nêu lần đầu tiên vào năm 2007 tại Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X), rồi được nhắc lại tại Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) và trong chương trình công tác của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã liệt kê nhiệm vụ xây dựng đề án cải cách giáo dục. Chiến lược giáo dục là sự phát triển giáo dục trên cơ sở tôn trọng mô thức (paradigm) cũ, còn cải cách giáo dục là sự phát triển giáo dục trên cơ sở thay đổi mô thức cũ. Các nhà lãnh đạo cấp cao cần có câu trả lời dứt khoát về sự lựa chọn giữa cải cách giáo dục và chiến lược để công việc được tập trung, tránh chồng chéo, lãng phí”.
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng (Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam ) cũng cho rằng “Bộ đừng vội công bố Chiến lược mà nên xem xét kỹ hơn... Giáo dục là trách nhiệm của toàn dân nên đừng ngại việc mọi người bàn về giáo dục mà phải lôi cuốn toàn xã hội tham gia trao đổi, tìm hướng giải quyết”. Ông Tăng cho biết trên cơ sở ý kiến của các nhà khoa học, Thường trực Đoàn Chủ tịch HĐTW Liên hiệp hội Việt Nam sẽ có kiến nghị chính thức với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đảng, Chính phủ, Quốc hội.
Ngay từ năm 2005, Liên hiệp hội Việt Namđã trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ... bản kiến nghị 6 giải pháp cải cách giáo dụcgồm:Cân nhắc kỹviệc thông qua trong Luật Giáo dục (GD)sửa đổi;Điều chỉnh lạichiến lược giáo dục đào tạo 20 năm đã ban hành;Cải cách ngaycơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng gắn kết giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp;Thành lập Ủy ban GD - ĐT quốc gialà cơ quan giúp Chính phủ điều phối toàn bộ công cuộc cải cách toàn diện; Nhà nước cần khẳng định rõ ràng chủ trương vận dụng những mặt mạnh của cơ chế thị trường vào phát triển giáo dục; Cải cách cơ chế quản lý giáo dục. Tại phần cuối của bản kiến nghị, Liên hiệp hội Việt Nam đề xuất cần có một tổ chức nghiên cứu để “thực hiện cuộc cải cách triệt để và toàn diện về giáo dục, đào tạo”. “Nếu được Chính phủ tin cậy, Liên hiệp hội Việt Nam sẵn sàng nhận một phần nhiệm vụ này”. |








