Cải cách GD cần sự cam kết mạnh mẽ của nhà nước
Để giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong lĩnh vực giáo dục, hiện đang tồn tại hai hướng suy nghĩ khác biệt đánh giá tình hình và lựa chọn giải pháp. Hướng thứ nhất, tiếp tục đà đổi mới hiện nay, chỉ cần chỉnh sửa, bổ sung nhằm khắc phục các khuyết tật của hệ thống. Hướng thứ hai, cần tiến hành một cuộc cải cách cơ bản và toàn diện.
Các nhà giáo, nhà khoa học suy nghĩ theo hướng thứ hai cho rằng, những yếu kém, bất cập và lạc hậu trong lGD đang làm giảm thiểu năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, khiến đất nước đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hơn nữa, nếu nền GD cứ trong tình trạng như hiện nay thì khó có thể đáp ứng yêu cầu đào tạo những con người đủ năng lực và ý chí bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
![]() |
| Ảnh: ductho.edu.vn |
Theo tôi, vấn đề bức bách lúc này là phải chấn hưng GD nước nhà. Muốn vậy, nhất thiết phải thực hiện một tổng thể các giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ, được tính toán một cách căn cơ, khoa học.Một cuộc cải cách như vậy là thực sự cần thiết, một yêu cầu sống còn.
Điều kiện và những thách thức
a) Nhưng CCGD phải được coi là công trình lớn của quốc gia, đặt trong tổng thể các cuộc cải cách kinh tế - xã hội và hướng tới một mục tiêu: Phát huy sức mạnh tổng hợp về dân trí, nhân lực, nhân tài để bảo đảm sự thành công của các cuộc cải cách kinh tế - xã hội.
Tình trạng thiếu liên kết trong cách xử lý các vấn đề về GD với các vấn đề kinh tế - xã hội khác (các chỉ tiêu thuộc lĩnh vực GD do các nhà GD định ra không được tính toán kỹ càng căn cứ vào yêu cầu KHTX) làm giảm thiểu hiệu quả CCGD.
b) Để CCGD thành công, cần có sự cam kết mạnh mẽ của nhà nước, thể hiện bằng luật pháp (một đạo luật hoặc một nghị quyết của Quốc hội quyết về CCGD) và bằng tài chính (Nhà nước có khoản ngân sách dành riêng cho CCGD).
Vì là một công trình lớn của quốc gia, nên đề án CCGD nhất thiết phải do một uỷ ban bao gồm các chuyên gia trong nước và người Việt ở nước ngoài, có kinh nghiệm và quyết tâm đổi mới, am hiểu về GD và những lĩnh vực liên quan đến GD soạn thảo.
Như thế chính là huy động sự đóng góp trí lực, nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực xã hội đầu tư cho GD.
c) Tình trạng thiếu chuyên nghiệp của không ít cán bộ quản lý GD ở các cấp quản lý là trở ngại lớn đối với CCGD. Gần đây, dư luận xã hội tỏ ý không đồng tình vì cơ quan QLGD không nhất quán trong chủ trương đổi mới, thậm chí ban hành những quy định không đúng thẩm quyền, trái quy định của pháp luật.
Rõ ràng, để CCGD thành công, những người điều hành cần đủ trình độ, bản lĩnh, và quan trọng là có thể huy động, tập hợp, phát huy được trí tuệ của đông đảo đội ngũ trí thức trong nước cũng như trí thức người Việt ở nước ngoài.
d) Đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD phải được đào tạo, bồi dưỡng để đủ phẩm chất và năng lực. Một trong những nguyên nhân hạn chế tác dụng của chương trình GDPT là trình độ hạn chế của giáo viên. Ngay ở bậc đại học, sự hẫng hụt về trình độ của giảng viên cũng đang là trở ngại lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Với cách đặt vấn đề như vậy, cải cách sư phạm phải được tiến hành sớm một nhịp trong CCGD.
đ) Xã hội cần tham gia trên cơ sở đồng thuận. Vừa qua, do một số chủ trương đổi mới trong lĩnh vực GD thiếu hiệu quả, nên xã hội có tâm lý e ngại CCGD. Đây là một trở ngại cần phải khắc phục để bảo đảm sự thành công khi tiến hành CCGD.
Đổi mới quản lý GD như thế nào?
Để tiến hành CCGD, cần thực hiện một lộ trình khắc phục những yếu kém, bất cập trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành hệ thống GD hiện nay. Đó là:
- Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp Trung ương và địa phương đối với lĩnh vực GD.
- Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các ngành trong công tác tài chính và nhân sự GD.
- Tăng cường quyền tự chủ của nhà trường đi đôi với hoàn thiện cơ chế công khai, minh bạch, bảo đảm sự giám sát của cộng đồng và xã hội.
- Thống nhất quản lý nhà nước về GD vào một đầu mối, không tiếp tục duy trì tình trạng tách rời giữa cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề và cơ quan quản lý về GD- ĐT, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống GD quốc dân.
- Sắp xếp, bố trí lại các cơ quan QLGD để nâng cao tính chuyên nghiệp, bảo đảm mỗi cấp đều thực hiện đúng chức trách. Các cán bộ chủ chốt trước hết là người đứng đầu cơ quan QLGD có đủ phẩm chất và năng lực biến chủ trương CCGD thành hiện thực.
![]() |
| Ảnh: vnway.vn |
Phải tuân theo những quy luật cơ bản của thị trường (quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật giá trị), xóa bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp dưới mọi hình thứctrong lĩnh vực GD, mà biểu hiện tập trung là quan hệ “xin - cho”. Xây dựng cơ chế giao quyền để cơ sở GD chủ động khai thác, sử dụng các nguồn tài chính đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra, ngănngừa mọi biểu hiện tham nhũng.
Để quản lý hệ thống GD có hiệu quả, cần có một hệ thống thông tin hiện đại, đủ sức cung cấp các số liệu thống kê phản ánh quy mô, chất lượng, cũng như tình trạng tài chính của lĩnh vực GD. Các số liệu phải bảo đảm chính xác làm căn cứ cho việc hoạch định chủ trương, chính sách, để nhân dân có cơ sở giám sát, kiểm tra.
Các chỉ số, chỉ tiêu phải được xây dựng tương thích với dữ liệu của các tổ chức quốc tế có uy tín để có thể so sánh, đánh giá cùng với các nước khác. Trên cơ sở tập hợp các dữ liệu chính xác, tiến hành dự báo nhu cầu nhân lực và xây dựng chương trình phát triển nhân lực quốc gia trong kế hoạch 5 năm và 10 năm. Chương trình nhân lực quốc gia cần xác định được nhu cầu nhân lực các cấp, trình độ của các ngành kinh tế- xã hội làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và thị trường lao động.
Nhanh chóng hình thành hệ thống kiểm định chất lượng thống nhất và khuyến khích các trường áp dụng mô hình quản lý chất lượng, củng cố hệ thống thanh tra chuyên môn để thực hiện phương thức QLGD theo chuẩn.
Nhà trường là nơi thể hiện đặc trưng của một nền GD. GD mạnh hay yếu, hiện đại hay lạc hậu phản ánh rõ nhất là ở nhà trường. Bởi vậy, một nhiệm vụ trọng tâm của cải cách QLGD là đổi mới quản trị nhà trường. Trong đó, rất quan trọng lúc này là việc thành lập hội đồng trường ở tất cả các cơ sở GD.
Chỉ trên cơ sở thành lập hội đồng trường mới có điều kiện bảo đảm để giao quyền tự chủ cho cơ sở GD nhằm quản trị hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm xã hội. Từ đó mới có thể huy động sự tham gia của cộng đồng vào việc tạo lập môi trường GD lành mạnh và động viên cha mẹ học sinh chăm lo việc học tập của con em.
Với mô hình hội đồng trường, ở GD nghề nghiệp, GD đại học, nhà trường phải được giao quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm phần lớn nội dung và chương trình đào tạo, tuyển sinh, việc mở ngành đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động, và cấp bằng tốt nghiệp với uy tín và thương hiệu của mình cũng như về tài chính, tổ chức bộ máy và nhân sự.










