Các nghề thủ công xưa của tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh có ba trung tâm công nghiệp: các tổng Đông Hồ (phủ Thuận Thành), Bình Ngô (huyện Gia Bình) và Tiêu Xá (huyện Gia Bình) (1) có 19,43% và 12% dân số hoạt động dành một phần thời gian cho công nghiệp. Cần nêu lên tầm quan trọng của tổng Bình Ngô, ở đó lại thấy xuất hiện một hoạt động công nghiệp sôi nổi có thể so sánh với tỉnh Hà Đông và vượt hơn tất cả những gì đã thấy ở các vùng vừa nêu lên. Trung tâm thứ hai là các tổng của phủ Từ Sơn: Phù Lưu (14%), Nghĩa Lập (14%), Tam Sơn (17%) và thêm vào đó là An Phú (huyện Yên Phong) và Nội Duệ (huyện Tiên Du) (2). Trung tâm thứ ba kém hoạt động hơn, nằm hai bên sông Cầu, các tổng Châm Khê (huyện Võ Giàng, Bắc Ninh), Tiên Cát (huyện Việt Yên, Bắc Giang) (3).
Sau đây là hai nghề thủ công đã được tác giả mô tả kỹ nhất:
Nghề vàng mã
Giấy chủ yếu được dùng làm đồ vàng mã, vì người Việt Nam trong việc thờ cúng thần thánh và tổ tiên, dành một vị trí rất lớn cho đồ vàng mã bằng giấy đem đốt đi để nối liền đời trần thế với cõi siêu nhiên: vàng thoi, bạc nén, quần áo giấy, bát đĩa giấy, nhà, thuyền, vũ khí, súc vật làm bằng giấy phết trên khung tre đan. Thợ Việt Nam dùng giấy làm ra đủ các thứ vật liệu, đôi khi rất khéo.
Việc làm hàng mã cũng như việc sử dụng đồ mã rất tản mạn. Ta thấy thợ mã khắp nơi, làm hàng mã bán thông thường hoặc theo đơn đặt hàng. Tuy nhiên có những làng trở nên quan trọng về mặt này, họ làm một khối lượng lớn vàng thỏi, bạc thỏi đặc biệt có tiếng: toàn thể dân làng tất bật làm công việc này, một công việc đòi hỏi phải rất khéo tay, nếu muốn kiếm được vài xu sau một ngày lao động. Muốn làm một thoi bạc, phải gấp một cái nan trẻ quanh một cái khuôn để làm khung, rồi dán quanh cái khung đó giấy trắng để làm thoi bạc, nếu là thoi vàng thì dán giấy vàng, trong trường hợp đó phải nhuộm giấy màu vàng trước (4). Một người thợ khéo có thể làm được 3.000 thoi một ngày, với một sự khéo tay và sức bền bỉ vượt quá sức người thường. Một trung tâm rất quan trọng làm thoi vàng, bạc là Lạc Thổ (tỉnh Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) (5), ở đây không làm nan mà mua nan của các làng bên. Người ta còn thấy những làng khác chuyên làm đồ mã, nhưng không quan trọng bằng những làng kể trên.
Làng Đạo Tú (tỉnh Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) làm một nghề đặc biệt là giấy điệp, dùng để làm một số đồ mã. Điệp dùng ở đây đưa từ Vịnh Hạ Long: đó là những vỏ trai, vỏ sò đã rữa thành một lớp mỏng, có lẽ lấy ở một di chỉ gần hoá thạch. Vỏ trai, vỏ sò đó được giã thành bột và trộn với hồ nếp đun sôi; sau khi có được một thứ bột sền sệt, đem viên thành những viên tròn trắng cỡ bằng miếng pho-mát Hà Lan. Đem quét lên giấy, nó khiến cho giấy lấp lánh như xà cừ. Giấy này bán ra Hà Nội dùng để phết lên mặt các hình nhân bằng giấy.
Trong việc làm đồ mã này, còn phải kể đến việc in tranh bán vào dịp tết Việt Nam. Phổ biến nhất là những tranh vẽ ông tướng mặt mũi dữ tợn, đem dán ở cửa để trừ tà ma. Nhưng cũng thấy những tranh có tính chất đơn thuần giải trí, mô tả cảnh lịch sử, những trò chơi rước rồng, ô tô, người đi xe đạp. Đó là những tranh khắc gỗ mà nét đen in bằng một bản khắc gỗ, còn màu thì tô bằng tay. Nghề này đang suy tàn và có một khoảng cách xa giữa tranh khắc cổ và tranh khắc hiện đại. Các làng quan trọng nhất về nghề này là Đông Hồ và Tú Tháp (tỉnh Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh).
Thường những làng làm thoi vàng bạc hàng mã lại không tự làm nan tre dùng làm cốt để dán giấy, mà lại mua của những làng không sản xuất hàng mã. Như Lạc Thổ (tỉnh Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) là một trung tâm lớn sản xuất những thoi vàng bạc, nhưng lại mua nan tre ở Dục Vị (Thượng Mão, Thuận Thành, Bắc Ninh) là chủ yếu, và mua cả ở Đại Đồng Đoài Đại Đồng Đông, ĐẠi Đồng Văn (Đình Tố, Thuận Thành, Bắc Ninh). Làng Đạo Tú (Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) làm giấy điệp, nhưng phải mua giấy ở nơi khác, và thợ thủ công của làng, sau khi phết lên mặt giấy một lớp xà cừ, lại đem bán giấy này cho thương nhân Hà Nội để những người này hoàn thành khâu cuối cùng bằng cách phủ lên giấy một lớp dầu bóng nào đó; đây là một trường hợp điển hình đặc biệt: giấy được chế tạo ở một điểm, được phết lớp xà cừ ở điểm thứ hai, được đánh bóng và hoàn thiện ở điểm thứ ba, sau đó giấy đã sẵn sàng để cho người thợ thứ tư sử dụng. Lại còn điển hình hơn nữa là làng láng giềng của Trưởng Xá (Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) cũng làm giấy điệp, nhưng không làm bột xà cừ và bột gạo cần thiết cho việc làm giấy điệp, mà phải đi mua các thứ bột ấy ở Đạo Tú.
Nghề đúc đồng
Làng Đại Bái (t. Bình Ngô, h. Gia Bình, Bắc Ninh) là trung tâm quan trọng nhất của nghề đúc đồng (6). Ở đó, nghề này thu hút hoạt động của hơn 1.000 người, có lẽ trong tất cả các làng châu thổ, đây là làng quan trọng nhất về mặt công nghiệp; về giá trị sản phẩm, có thể nó còn vượt cả các làng gốm và làng lớn dệt lụa Vạn Phúc, gần Hà Đông.
Thợ thủ công làng Đại Bái và của các làng khác làm đồ đồng rất táo bạo: họ đúc những cái bình rất mỏng mà ở nơi khác người ta phải dùng đến phương pháp dập, dát; họ sản xuất nồi, chảo, chậu, ống nhổ, bình để bàn thờ, ấm chén. Khi đồ vật có khiếm khuyết, mà điều này thường xảy ra, họ vứt ngay vào nồi nấu lại. Ở Đại Bái còn làm nghề gò đồng và khảm đồng tam khí.
Ở Đại Bái, cứ năm ngày lại có một phiên chợ bán đồ đồng. Dưới những mái nhà hẹp có cột bằng đá vôi chất đống lộn xộn đủ các thứ hàng, xen lẫn với người bán, người mua, điểm xuyết những ánh đồng vàng hoặc đỏ rực rỡ. Cách chỗ bày bán thành phẩm không xa là nơi bán nguyên liệu, những người sản xuất sẽ mua sau khi bán xong hàng của mình: than củi thành mảnh nhỏ, thiếc vụn, đồng cũ; ở đây có thể thấy một cuộc trưng bày lý thú những ống nồi hơi cũ, dây đồng, những mảnh dập thủng để làm các hộp thuốc phiện của xưởng Sài Gòn, vỏ đạn đủ loại; vỏ đạn ở đây rất đa dạng, cứ như là tất cả các chiến trường và bãi bắn trên thế giới đều tìm cách gửi vài mẫu đồ phế thải về Đại Bái.
Khi xem xét những trường hợp riêng biệt, ta thấy rằng, những làng công nghiệp được thiết lập một cách phi lý nhất, và sự bất nhất, sự vi phạm các quy tắc sơ đẳng nhất về tổ chức công nghiệp là đặc trưng cho việc xác định vị trí của các ngành công nghiệp khác nhau. Làng Đại Bái là làng chế tạo đồ đồng, trung tâm của một luồng buôn bán thực sự quan trọng, về mặt cung cấp những nguyên liệu cũng như tiêu thụ sản phẩm làm ra, lại được đặt trong những điều kiện tồi tệ nhất. Tất cả các loại hàng đều do phu khuân vác đi bộ ít nhất là 5 km từ Đại Bái đến sông Đuống, trên những bờ ruộng hẹp chỉ cho phép sử dụng đòn gánh; chính bằng cách thức vận chuyển năng suất thấp đó mà than củi, kẽm, đồng được đưa tới Đại Bái và những sản phẩm chế tạo được đem đi bán. Con ngòi Đại Bái đổ vào sông Thái Bình ở Lại Hạ (t. Đại Thượng, Lang Tài, Bắc Ninh) sau nhiều khúc lượn quanh, lại không thể giao thông được. Đó là không kể việc có thể thấy vị trí của Đại Bái không phải là xấu nhất, vì làng đó chỉ cách sông Đuống có 5 km, đưa thuyền chở than củi tới.
______________________
1. Công nghiệp ở Đông Hồ: hàng mã; Bình ngô: đan lát, đúc đồng; Tiêu Xá: đan lát.
2. Công nghiệp ở Phù Lưu: sơn, nhuộm, dệt, hàng xáo; Nghĩa Lập: thợ mộc, dệt; Tam Sơn: thợ nền, dệt; An Phú: thợ nề, mành mành, thợ rèn; Nội Duệ: thợ nền, dệt.
3. Công nghiệp ở Châm Khê: làm gạch, nung vôi, thợ nề, thợ cắt tóc; người giúp việc; Phong Xá: thợ mộc; Tiên Cát: đồ gốm.
4. Sau khi nhuộm tờ giấy nhỏ hình vuông để làm thoi vàng, người thợ cài vào một cái que tre rồi cắm xuống đất hay cắm vào vách nứa để phơi cho khô; người không biết khi nhìn thấy cứ tưởng là lễ cắm cờ vàng.
5. Các làng làm đồ mã và đặc biệt làm thoi vàng, thoi bạc của tỉnh Bắc Ninh: Giao Tất (t. Kim Sơn, h. Gia Lâm), Trường Xá (t. Đông Hồ, p. Thuận Thành), Tú Khê (nt, nt), Long Khám (t. Đông Sơn, h. Tiên Du), Cẩm Giàng (t. Tam Sơn, p. Từ Sơn).
6. Những trung tâm đúc đồng khác: Đề Cầu (t. Đề Cầu, p. Thuận Thành, Bắc Ninh), Đông Mai (t. Đại Từ, h. Văn Lâm, Hưng Yên), Lộng Đình (nt, nt, nt). Có thể châu thổ Bắc Kỳ không có đủ số thợ đúc đồng: chúng tôi đã thấy ở Thái Bình những người thợ đúc đồng quê ở Thanh Hoá. Làng Cao Quán (t. Yên Lạc, p. Khoái Châu, Hưng Yên) có những người làm nghề hàn đồng.
Nguồn: Xưa & Nay, số 245, 10/2005