Bùng phát chăn nuôi bò sữa ở Trung Quốc
Yêu cầu của người tiêu dùng tăng bột phát
Từ năm 1985 đến năm 2003, ở các thành phố Trung Quốc, mức tiêu thụ thịt lợn, loại thực phẩm phổ cập nhất tăng 22%, tăng mạnh hơn là thịt bò và thịt cừu 82%; thịt gà tăng 164%; hải sản tăng 57%. Người dân thành phố cũng chi nhiều hơn cho thực phẩm chế biến sẵn ăn liền, đi ăn ở các cửa hàng ăn. Điều kỳ lạ là mặc dầu có những thay đổi rõ rệt nhu cầu về thịt và lương thực nhưng mức tiêu thụ sữa tươi ở thành phố vẫn ổn định, thời gian từ năm 1985 đến 1994 chỉ ở khoảng 5kg/người. Năm 1990 bình quân người dân thành phố Trung Quốc tiêu thụ sản phẩm sữa tương đương 7, 5kg. Người dân ở nông thôn chỉ tiêu thụ khoảng 2,5kg.
Giữa những năm 1990 người tiêu dùng Trung Quốc thay đổi nhận thức về sữa nên mức tiêu dùng sản phẩm sữa bắt đầu tăng. Các thông tấn xã, các cơ quan bảo vệ sức khỏe và ngay cả bản thân ngành sữa sẵn sàng cung cấp những thông tin lợi ích của việc thường xuyên sử dụng sản phẩm sữa. Người Trung Quốc được giải thích sữa không những chỉ cần cho trẻ con, người già, người ốm đau mà thôi. Đồng thời nhịp điệu sống bận rộn, hiện đại ở thành thị đã khuyến khích việc sử dụng thực phẩm chế biến, đóng gói, kể cả các sản phẩm sữa. Sự cạnh tranh nổi lên trong nội bộ ngành sản xuất sữa Trung Quốc cũng thúc đẩy các nhà chế biến sữa thích ứng với sự thay đổi của người tiêu dùng. So với vài năm trước đây, bây giờ không tưởng tượng nổi sản phẩm sữa bày bán ở khắp các chợ, các siêu thị, các đại lý đang mang nhiều loại sữa, khối lượng lớn, đa dạng, kể cả sản phẩm của những hãng nổi tiếng đến cho người tiêu thụ thuộc các bộ tộc khác nhau.
Bắt đầu từ năm 1995, mức tiêu thụ sữa ở thành phố Trung Quốc tăng hàng năm 2 con số. Số liệu điều tra chi phí hàng năm của hộ cư dân thành phố Trung Quốc do Cục thống kê cung cấp, cho thấy mức tiêu thụ sản phẩm sữa của các tầng lớp dân chúng đều tăng. Ngay những hộ có thu nhập thấp, mức tiêu thụ sữa, giai đoạn 1996 - 2003 của họ cũng tăng gấp đôi. Với nhóm người thu nhập cao, mức tiêu thụ sữa của họ, nhất là sữa tươi tăng trên 30%. Không như sữa tươi và sữa chua mức tiêu thụ sưa bột của cả nhóm thu nhập thấp cũng như nhóm thu nhập cao đều giảm, mức tiêu thụ bình quân đầu người của nhóm cư dân giàu nhất đã bắt đầu giảm từ năm 2002.
Tương lai nhu cầu về sản phẩm sữa của Trung Quốc sẽ ra sao? Mức tiêu thụ sẽ còn tiếp tục tăng nhanh trong một thời gian nữa, nhất là tăng mức tiêu thụ sữa tươi và sữa chua của nhóm cư dân đô thị thu nhập thấp và thu nhập trung bình. Đã rõ, người dân đô thị có thu nhập cao mức tiêu thụ sữa tươi và sữa chua của họ bằng với mức tiêu thụ 2 sản phẩm trên của nhóm những người thu nhập trung bình và thu nhập cao ở các nước châu Á. Mặc dầu nhịp độ tăng nhu cầu về sữa của nhóm người này có thể chậm lại nhưng những người tiêu dùng của nhóm có thu nhập cao nhất còn tăng, chẳng hạn họ ăn nhiều pho mát hơn giống như người tiêu dùng ở Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Thu nhập hộ gia đình tăng nhanh và xã hội hướng theo phương tây của các thành phố lớn của Trung Quốc, đã làm thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm sữa, thói quen mua thực phẩm và thị trường sản phẩm sữa. ảnh hưởng đó cũng đã lan tỏa ra các đô thị nhỏ và vùng nông thôn, người ta đang khuyến khích sử dụng sữa. Thu nhập của hộ gia đình đang tăng, số hộ có tủ lạnh ngày càng nhiều, siêu thị, hệ thống đại lý thuận tiện đang thâm nhập thị trường nông thôn. Tùy theo chất lượng thích hợp và hệ phân phốt bảo đảm, các cửa hàng mới này bán các sản phẩm sữa của các hãng nội địa. Ngay cả những người thu nhập thấp từ nông thôn mới ra thành phố cũng chuyển tập quán ăn theo người thành phố.
Một chương trình nghiên cứu mới đây cho biết, đến năm 2014 mức tiêu thụ sữa tươi của người dân thành phố đạt 32 kg - tăng 5% năm. Trái lại, mức tiêu thụ sữa tươi của người dân nông thôn chỉ 1,5kg/người, tăng khoảng 2% năm.
Sản xuất sữa đang giữ vững nhịp điệu
Năm 1980, sản xuất sữa của Trung Quốc chỉ đạt khoảng 1 triệu tấn /năm. Nhưng 15 năm vừa qua, tổng sản lượng sữa của Trung Quốc đều đặn tăng 14% năm. Đến giữa những năm 1990 tổng sản lượng sữa chỉ mới 6 - 7 triệu tấn, ở mức này Trung Quốc đứng thứ 20 thế giới về sản xuất sữa. Bắt đầu từ giữa những năm 1990 sản xuất sữa đã tăng 20%. Đến năm 2003, tổng sản lượng sữa đạt 18 triệu tấn, Trung Quốc đứng hàng thứ 7 thế giới về sản xuất sữa bò và đứng hàng thứ 8 về sản xuất tất cả các loại sữa. Không giống như các nước châu Á khác, sản xuất sữa ở Trung Quốc chủ yếu là sữa bò.
Do vậy, ngay cả khi sức tiêu thụ sữa bò tăng trong 2 thập kỷ qua, sản xuất sữa nội địa vẫn thẹo kịp nhịp điệu. Để đáp ứng nhu cầu, dự tính đến nằm 2014, yêu cầu tổng sản lượng sữa bò của Trung Quốc so với năm 2003 phải tăng thêm 11, 2 triệu tấn.
Sản phẩm sữa nội địa là sản lượng sữa của đàn bò sữa và năng suất sữa của từng con bò sữa. Ở Trung Quốc, nguồn tăng trưởng sữa nổi trội nhất là do tăng đàn bò sữa.
Năm 1980, ở Trung Quốc có khoảng 640.000 con bò sữa. Từ năm 2000 đàn bò sữa Trung Quốc đã tăng 11% năm; năm 2000 tổng đàn bò sữa đã lên đến 4, 88 triệu con. Theo số liệu niên gián thống kê Trung Quốc, sau năm 2000 bò sữa Trung Quốc tăng hàng năm 20%. Cục dịch vụ Nông nghiệp Hải ngoại Mỹ (FAS) mới hiệu chỉnh lại số liệu lịch sử đàn bò sữa của Trung Quốc.
Vùng chăn nuôi bò sữa của Trung Quốc
Phải nói rằng, việc tăng sản xuất sữa trong những năm gần đây không xẩy ra đồng đều khắp các vùng của Trung Quốc. Sản lượng sữa tăng của các thập niên vừa qua chủ yếu là ở phía Bắc Trung Quốc. Kể cả các tỉnh phía Bắc sông Dương Tử. Đàn bò sữa ở phía Nam chỉ tăng 4%. Ở phía Bắc Trung Quốc còn có vành đai chuyên canh bò sữa của tỉnh, nhất là ở tỉnh Thiên Tân.
Như vậy, vùng bò sữa đang trải rộng từ Hắc Long Giang đến phía Tây Nội Mông, ở phía Bắc từ Hà Bắc và Sơn Đông đến đồng bằng Bắc Trung Quốc. 70% đàn bò sữa tăng trưởng của Trung Quốc nằm ở Thiên Tân và 4 vành đai chuyên canh bò sữa của tỉnh. Việc mở rộng vành đai chuyên canh bò sữa này phù hợp với kết quả điều tra do trung tâm nghiên cứu chính sách nông nghiệp Trung Quốc tiến hành, chứng tỏ ở đây đang tăng cường chuyên môn hóa các ngành sản xuất nông nghiệp phụ trợ như rau, quả, chăn nuôi để cải tiến thị trường hàng hóa của đất nước.
Tuy còn chưa hình dung được quy mô sản xuất hộ, là nơi còn chiếm giữ đại bộ phận đàn bò sữa sẽ tiến triển như thế nào, nhưng tính chất kồng kềnh và dễ hư hỏng của sữa cảnh báo việc chăn nuôi bò sữa sẽ phát triển, khác các ngành chăn nuôi khác, đặc biệt là ngành chăn nuôi lợn. Các công ty chế biến khuyến khích quy mô lớn để khai thác công nghệ có hiệu quả về tăng chất lượng, giảm chi phí thu gom sữa. Thông qua các hành động liên kết như thành lập trạm chế biến lưu động, cho thuê nhà, mặt bằng vắt sữa ở các cửa hàng bán sữa, các ông chủ chế biến sữa đang có vai trò chiến lược quan trọng trong việc xác lập quy mô sản xuất.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh về bò sữa đang tiềm ẩn một số điều bất cập như việc ứng dụng các tiến bộ di truyền, quản lý sản xuất và nguồn thức ăn. Những người sản xuất thức ăn gia súc Trung Quốc còn có thể thu lợi lớn nếu họ có thể tối ưu hóa vai trò của họ trong việc cải tiến hiệu quả chăn nuôi bò sữa, vì hiệu quả chăn nuôi bò sữa còn thua kém các nước khác và các ngành chăn nuôi khác của Trung Quốc. Mọi xu hướng chuyển đổi từ chăn nuôi bò sữa quy mô nhỏ sang chăn nuôi quy mô lớn chuyên môn hóa và liên kết chặt chẽ hơn với các cơ sở thương nghiệp yêu cầu phải tăng nguồn thức ăn tinh, khô dầu và thức ăn công nghiệp. Công trình nghiên cứu mới đây cho rằng để nâng cao nữa tổng sản lượng sữa của Trung Quốc phải tăng cường đầu vào, mua bò cái tơ, thức ăn, thiết bị và các khoản đầu vào khác.
Nhìn về tương lai, có nhiều lý do để tin tưởng rằng việc tiếp tục tăng nhanh nhu cầu sản phẩm sữa ở Trung Quốc là điều không phải bàn cãi. Dự báo cho thấy thu nhập đầu người còn tăng, chắc có thể hàng trăm triệu người ở các thành phố mới cũng tăng nhu cầu tiêu thụ sữa. Sự tăng trưởng đột biến yêu cầu về sữa ở các thập niên vừa qua chỉ là bước khởi đầu của sự tăng trưởng bền vững và lâu dài. Đối với người chăn nuôi bò sữa Trung Quốc, để kịp thỏa mãn nhu cầu sữa ngày càng tăng phải áp dụng tiếp tục kỹ thuật mới và tăng hiệu quả sản xuất. Lôi kéo các công ty sữa nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc sẽ giúp cho quá trình phát triển thuận lợi hơn.
Đây là công trình nghiên cứu tập thể do tiến sĩ Frank Fuller, cán bộ nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu và phát triển nông thôn Mỹ (CARD) trường Đại học IOWA cộng tác với tiến sĩ Jikun Huang (Trung tâm nghiên cứu chính sách Trung Quốc), tiến sĩ Hengyun Ma (trường Đại học Massey - Tân Tây Lan) và tiến sĩ Scott Roselle (trường Đại học California - Davis - Mỹ).
Báo cáo này do tiến sĩ Frank Fuller và Tổng Biên tập báo Thức ăn gia súc thế giới thực hiện năm 2006.
Nguồn: T/c Chăn nuôi, 6/2007, tr 39