Bối cảnh mới cần có tư duy quản lý mới
-Bộ Nội vụ vừa đưa ra bản dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội nhằm thay thế Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 (Nghị định 88). Theo ông, vì sao phải sửa Nghị định 88?
TS Phạm Văn Tân:Nghị định 88 ra đời năm 2003 nhằm cụ thể hoá Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957, có vai trò rất quan trọng tạo điều kiện thúc đẩy việc ra đời và hoạt động của hội. Sau khi Nghị định được thực thi thì số tổ chức hội được thành lập và đi vào hoạt động đã tăng lên nhanh chóng, làm phong phú quá trình dân chủ hoá ở nước ta.
Tuy nhiên, Nghị định không điều chỉnh được các mối quan hệ của tất cả các loại hội, đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khá nhiều hệ luỵ trong việc thành lập và hoạt động của không ít các tổ chức hội. Dư luận đã ví Nghị định 88 là “2 còng số 8”, một âm hưởng buồn phản ánh sự phản ứng của các tổ chức bị “xiết” bởi một số nội dung quy định trong Nghị định. Chính phủ đã thấy được các phản ứng không thuận chiều khi thực thi Nghi định, vì vậy đã yêu cầu Bộ Nội vụ nghiên cứu việc sửa đổi Nghị định được đặt ra ngay từ năm 2005, chỉ sau hai năm Nghị định được công bố.
Trong những năm qua, Bộ Nội vụ đã dự thảo hơn 10 lần việc sửa đổi Nghị định, mỗi lần sửa đều lấy ý kiến đóng góp từ các bên liên quan. Các dự thảo đã được các hội, các cá nhân đại diện cho tiếng nói của hội quan tâm và đóng góp ý kiến, nhưng điều đáng nói là nội dung lần dự thảo sau cũng không có thay đổi gì sáng sủa hơn các dự thảo trước. Bao nhiêu ý kiến đóng góp thẳng thắn, đầy trách nhiệm của đông đảo đại diện các hội thông qua các hội thảo, trao đổi đều chưa được tiếp thu một cách nghiêm túc. Đại diện nhiều hội tỏ thái độ thất vọng và chán nản không muốn tiếp tục đóng góp ý kiến vào dự thảo.
-Xin ông cho biết những nội dung cụ thể nào trong dự thảo mới nhất mà Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên còn chưa đồng tình.
TS Phạm Văn Tân:Có bốn vấn đề lớn trong dự thảo còn gây phản ứng của các hội.
Thứ nhất, về việc cho phép hay đăng kýthành lập hội: Nghị định chưa toát lên được tinh thần nội dung Sắc lệnh số 102/SL/L004 ban hành Luật quy định quyền lập hội, tôn trọng quyền được tự do lập hội của công dân, thể hiện ngay trong Điều 3 về nguyên tắc tổ chức, hoạt động hội quy định công dân “ phải xin phép” cơ quan nhà nước có thẩm quyền. “ Phải xin phép ”là thiết lập việc “xin – cho”, sự ban ơn của các cơ quan có thẩm quyền đối với nguyện vọng chính đáng của công dân, tước đi quyền tự do của công dân. Đa số các hội đều đề nghị sửa cụm từ “ phải xin phép”bằng cụm từ “ phải đăng ký”. Ngay việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể Bộ Nội vụ chỉ nên công nhận việc đó thay vì muốn thiết lập cái quyền “ cho phép” như nêu tại điểm 1 Điều 14. Như vậy đề nghị thay thế cụm từ “ phải xin phép ”hay “ cho phép” bằng cụm từ “ phải đăng ký” hoặc “ công nhận” (Điều 3; Điều 14). Việc “ phê duyệt Điều lệ” nên được thay thế bằng “ công nhận Điều lệ” ( Điều 13).
Thứ hai,về quyền lợi của hội:Dự thảo đã đề cập được nhiều hơn về quyền của hội và hội viên. Đó là điểm tiến bộ rõ rệt so với các dự thảo cũ. Tuy nhiên, các hội đề nghị mở rộng quyền của hội được quy định tại điểm 9 Điều 23 là hội có quyền tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách khác của nhà nước mà hội có khả năng và trách nhiệm tham gia, thay vì chỉ giới hạn “ tham gia góp ý vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội”. Quy định như Dự thảo vẫn có ý hạn chế quyền của hội. Điểm 7 Điều 23 khi đề cập tới quyền tham gia tư vấn, phản biện và giám định mà chưa nói tới quyền tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã hội, tức là hoạt động đó có tính chất xã hội, phản ánh ý kiến và dư luận xã hội .Với quyền đó không chỉ giới hạn khi có “ đề nghị của cơ quan nhà nước”, một khi đã là trách nhiệm với đất nước, với quốc gia thì đôi khi không thể chờ tới lúc cơ quan nhà nước đề nghị thì hội mới vào cuộc mà hội có quyền chủ động thực hiện việc tư vấn, phản biện và giám định. Trách nhiệm chung với đất nước, quốc gia không thể chờ theo kiểu “ ăn có mời, làm có khiến” được.
Thứ ba, về nghĩa vụ của hội:Theo quy định tại Điều 24, người ta thấy hội có quá nhiều nghĩa vụ phải “ báo cáo”. Ngay tại điều này, có tới 6 lần hội phải “ báo cáo”. Nếu chấp hành nghiêm chỉnh thì việc phải làm nghĩa vụ “ báo cáo” với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ chiếm hầu hết thời gian hoạt động của hội.
Thứ tư, về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước: Trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hội được nêu rõ trong Điều 36 song người ta có quyền e ngại rằng “ cơ quan nhà nước có thẩm quyền” tức là Bộ Nội vụ chỉ tập trung quan tâm tới việc “ cho phép”, “ tổng hợp báo cáo”, “ giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hội”. Bộ Nội vụ với trách nhiệm là “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” phải có trách nhiệm cáo bạch việc quản lý hội định kỳ hoặc hàng năm đối với quốc dân, đồng bào, với các cơ quan nhà nước cấp trên như Chính phủ, Quốc hội, Đảng.
Trách nhiệm của các bộ hỗ trợ hoạt động hội cần được đề cập nhiều hơn, cụ thể hơn thay vì chỉ nêu riêng trách nhiệm của Bộ Tài chính liên quan đến “ hỗ trợ kinh phí”(điểm 3 Điều 37). Hội cần được nhà nước hỗ trợ không chỉ về tài chính mà cả vấn đề như đất đai để làm trụ sở hay các nguồn lực khác, nhất là cơ chế, chính sách.
-Được biết, so với các dự thảo trước, điểm mới của dự thảo lần này là có chương riêng dành cho các tổ chức “đặc thù”. Nhận xét của ông về nội dung này?
![]() |
| Tọa đàm góp ý dự thảo mới nhất sửa đổi Nghị định 88/2003/N Đ-CP do Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức. Ảnh: Linh Ngọc |
TS Phạm Văn Tân:Điểm mới trong dự thảo lần này là có chương riêng dành cho các tổ chức đặc thù, trong đó có nêu quyền, nghĩa vụ của hội có tính đặc thù, chính sách của nhà nước đối với các tổ chức đặc thù. Tuy nhiên, trong các văn bản, các danh mục cơ quan, tổ chức hiện nay, không có tổ chức đặc thù. Người đọc nêu ra câu hỏi vậy tổ chức nào có tính chất đặc thù và những yếu tố nào làm nên tính đặc thù? Nếu định đề cập đến các tổ chức chính trị - xã hội khác ngoài 6 đoàn thể chính trị đã nêu ngay trong Điều 1, bao gồm các tổ chức chính trị – xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp hay tổ chức cụ thể khác do các cơ quan cao cấp của Đảng và Nhà nước chỉ đạo và ra quyết định thì Nghị định nên nêu rõ tên các tổ chức đặc thù ấy gồm những tổ chức nào.
Với các tổ chức đặc thù thì quyền và nghĩa vụ cũng cần phải xác định rõ ràng và cụ thể hơn, trên tinh thần tôn trọng các quyền và nghĩa vụ đã được xác định trong các quyết định của các cơ quan Đảng, Nhà nước ban hành. Về chính sách của Nhà nước với các tổ chức loại này, cần phải tập trung vào việc tạo các cơ chế, chính sách cho các tổ chức này hoạt động thật hiệu quả tương xứng với tính chất đặc thù của nó chứ không chỉ đề cập tới một số “ hỗ trợ về biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất” như nêu tại Điều 35.
Mặt khác, nội dung của chương này có nhiều điểm không đồng nhất với các chương khác trong dự thảo.
Một điểm khác nữa là các tổ chức “ đặc thù” này được lập ra theo yêu cầu nhiệm vụ. Sự thành lập nó có thể do Đảng hoặc Nhà nước chỉ đạo hoặc quyết định, chứ chưa hẳn là “ tự nguyện, tự quản”. Vì vậy các tổ chức này có Đảng đoàn, tổ chức đảng, thực hiện những nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước quy định. Việc điều chỉnh hoạt động các tổ chức này “ được quy định, thực hiện các quy định chung tại Nghị định này” như các tổ chức xã hội khác là không thoả đáng, rất khiên cưỡng, khá mập mờ khi mà sứ mệnh của nó, vai trò chính trị của các tổ chức “đặc thù”đó khác hẳn với các tổ chức không đặc thù. Việc đưa các tổ chức này vào chung một Nghị định với các tổ chức không có tính “đặc thù” là không phù hợp, trái với tinh thần kết lụân của Ban Bí thư về việc nghiên cứu ban hành một Nghị định riêng về các tổ chức “đặc thù”. Khi tư duy xây dựng văn bản quan trọng có liên quan đến nhiều đối tượng, tầng lớp trong xã hội như các tổ chức được gọi là “ đặc thù”, không được phép làm theo kiểu cho một ít quyền lợi (ban ơn), có làm (thực hiện) đấy chứ, làm cho xong chuyện (việc) được giao. Điều đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp hạ thấp vai trò của các tổ chức này, tước bỏ đi sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với những tổ chức có chức năng “ đặc thù” thực hiện những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước yêu cầu.
-Trước tình hình đó, Liên hiệp hội Việt Nam có thể đề xuất những kiến nghị gì mới nhằm góp phần hoàn chỉnh bản dự thảo văn bản pháp quy quan trọng này?
TS Phạm Văn Tân:Theo tôi, khi biên soạn dự thảo cần có tư duy mới phù hợp với xu thế và tình hình thực tế trong việc xây dựng một văn bản quan trọng có liên quan đến hoạt động hội, đặc biệt là đối với các tổ chức được coi là “đặc thù”. Nên có sự đối thoại giữa Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì soạn thảo Nghị định mới thay thế Nghị định 88 với các tổ chức “đặc thù” để thống nhất về các quan điểm cơ bản đối với các tổ chức này khi xây dựng dự thảo Nghị định. Những phản ứng gay gắt từ các tổ chức này khi các tổ chức đó bị điều chỉnh bởi các quy định trong Nghị định 88 và dự thảo Nghị định mới đặt ra một vấn đề cần câu trả lời: xây dựng, ban hành một văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho một số tổ chức mà bị các tổ chức đó phản ứng dữ dội thì phải tự kiểm tra xem văn bản đó có chứa đựng nhiều tính khách quan hay không, có khả thi hay không?và cần lường trước hiệu ứng của văn bản đó. Áp đặt ý chí chủ quan của một cá nhân hay một nhóm người mà nhân danh nhà nước không xem xét đến quyền lợi của khách thể bị điều chỉnh có thể được hiểu là sự lạm dụng quyền lực, vi phạm luật pháp. Phương án khả thi nhất là nên đưa các loại tổ chức tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp hay một số tổ chức cụ thể khác do Đảng và Nhà nước chỉ đạo và ra quyết định thành lập ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Nghị định. Các loại tổ chức này sẽ được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật khác trên cơ sở tuân thủ Sắc lệnh 102/SL/L004 và phù hợp với nhiệm vụ chính trị mà các tổ chức đó đang có sứ mệnh thực hiện.
-Xin cảm ơn ông.









