Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 03/07/2007 22:34 (GMT+7)

Bay bổng và thực tiễn

Nhà chọn tạo giống và nhà thơ

Tôi nhớ vào khoảng năm 1978, ngày ấy Vũ Tuyên Hoàng sau khi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ khoa học Nông nghiệp ở Liên Xô về nước, nhậm chức Viện trưởng Viện cây lương thực và cây thực phẩm, thay thế cố Bác sỹ nông học Lương Định Của. Tôi cùng một số nhà văn, nhà thơ, họa sĩ vốn là “bạn văn” của Vũ Tuyên Hoàng xuống thăm Viện; thực ra là đi dự “Hội nghị đầu bờ” do Viện tổ chức để các cán bộ KHKT và nông dân trao đổi về kinh nghiệm xây dựng cánh đồng lúa cao sản 5-10 tấn/ha. Nhìn Vũ Tuyên Hoàng lội ruộng dẻo dai như nông dân và cách ông quan sát ruộng lúa chín, đếm bông, xem dảnh, có thể ước lượng khá chính xác năng suất của ruộng lúa, mấy anh em thật sự khâm phục. Nếu bạn là “dân” di truyền, chọn giống hẳn bạn biết rõ quá trình tổ hợp gen và phân ly của các dòng lúa lai tạo qua các thế hệ biến hóa tinh tế, phong phú biết dường nào. Vậy mà chỉ cần quan sát các tính trạng thể hiện trên những cá thể ở các ô ruộng thí nghiệm, bằng cách nắm vững các quy luật biến đổi trong chuỗi ngẫu nhiên, ông có khả năng cảm nhận, nắm bắt một cách nhạy bén, để chớp được những dòng có triển vọng theo những mẫu hình đã đặt ra. Vũ Tuyên Hoàng là nhà chọn tạo giống đầy tài năng. Tôi đã có dịp được xem cuốn sổ tay ghi chép kết quả thực nghiệm của ông - rất tỉ mỷ, chính xác, những con số biết nói khác với những vần thơ, bức họa mà ông thường sáng tác trong những lúc cảm hứng.

Xóm nhỏ. Tranh: Vũ Tuyên Hoàng
Xóm nhỏ. Tranh: Vũ Tuyên Hoàng
Có lần tôi hỏi ý kiến ông về cách dịch một bài thơ ngũ ngôn - bài “Xuân hiểu” (Buổi sớm mùa xuân) của Mạnh Hạo Nhiên, một nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường. Bài thơ ngũ ngôn gồm 20 từ ấy vừanhiều tầng ý nghĩa, vừa diễn tả tinh tế sự vận động của ý thức, đã khiến một học giả người Pháp - ông Gil Delannoi bối rối khi dịch mặc dù ông đã dành hàng chục năm nghiên cứu Hán ngữ và thơ Đường.Không ngờ vừa nghe xong nguyên bản, Vũ Tuyên Hoàng ứng tác dịch ngay ra thơ Việt, và sau đó đã có dịp đăng bản dịch này trên tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống. Vũ Tuyên Hoàng đã dùng óc tưởng tượng trongvăn học nghệ thuật làm đôi cánh cho tư duy khoa học sáng tạo của mình.

Từ công trình chuyển vụ lúa đến giả thuyết về hai hệ thống gen trong cây lúa

Sau khi tối nghiệp Đại học Nông nghiệp từ nước Ngoài năm 1960 trở về nước, Vũ Tuyên Hoàng giảng dạy tại Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Ngày ấy ông còn chưa phân biệt được các giống lúa chiêm, lúa mùa. Vậy mà sau khi thâm nhập thực tế, Vũ Tuyên Hoàng đã sớm đặt ra câu hỏi: Vì sao các giống lúa mùa thường cho năng suất cao hơn lúa chiêm? Có thể chuyển được một số giống lúa mùa năng suất cao sang vụ chiêm để tăng năng suất vụ chiêm ?

Trong khi nghiên cứu tìm câu trả lời, Vũ Tuyên Hoàng đụng đến một vấn đề rất khó nhưng đầy thú vị, đó là phản ứng đối với độ dài ngày (phản ứng quang chu kỳ) của các giống lúa là khác nhau. “Chiêm cập cợi, mùa đợi nhau” - trong vụ chiêm, tuỳ theo thời gian gieo cấy, các trà lúa làm đòng và chín rải rác; song trong vụ mùa các giống lúa thường tập trung chín vào tháng 10 âm lịch ngày ngắn - “tháng mười chưa cười đã tối”.

Công trình nghiên cứu do Vũ Tuyên Hoàng tiến hành từ 1961 đến 1965 đã sử dụng 120 giống lúa khác nhau về phản ứng đối với quang chu kỳ và nhiệt độ. Kết quả cho thấy, chỉ có những giống ngắn ngày nhạy cảm với nhiệt độ mới có thể trồng được vào vụ chiêm, gieo hạt khoảng từ 15/11 đến 01/12. Công trình này đã góp phần đặt cơ sở khoa học cho việc lần đầu tiên hình thành vụ lúa đông xuân ở phía Bắc nước ta. Sau khi giống IR.8 và một số giống khác nhạy cảm với nhiệt độ được nhập nội từ Viện Lúa quốc tế (IRRI) cùng với các cơ quan nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam (trong đó có Viện cây lương thực và cây thực phẩm) chọn tạo ra, miền Bắc đã nổi lên phong trào làm lúa vụ đông xuân cao sản, áp dụng thời vụ gieo và kỹ thuật trồng trọt như Vũ Tuyên Hoàng đã nghiên cứu.

Trong dư luận cũng như trên báo chí lâu nay người ta thường chỉ nói đến vai trò của Khoán 10 dẫn đến sự kiện Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành một quốc gia bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới. Tuy nhiên, thực tế là Khoán 10 kết hợp với việc thực hiện Chương trình Khoa học kỹ thuật Nhà nước về cây lương thực đã tiến hành 10 năm trước đó, đưa vào sản xuất các giống lúa năng suất cao và kỹ thuật thâm canh, mới có thể đạt kết quả. Qua thành công này, dư luận thế giới đã đánh giá rất cao khoa học kỹ thuật Việt Nam về trồng lúa. Được biết, Chương trình Khoa học Kỹ thuật Nhà nước về cây lương thực do GS.Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng làm chủ nhiệm 18 năm, đã tập hợp 43 cơ quan trong cả nước với sự tham gia của mấy ngàn cán bộ khoa học.

Biển Sầm Sơn. Tranh: Vũ Tuyên Hoàng
Biển Sầm Sơn. Tranh: Vũ Tuyên Hoàng
Các công trình nghiên cứu khoa học của Vũ Tuyên Hoàng đã tiến hành gây tạo các dòng lúa đột biến bằng tia gamma và các tác nhân hóa lý khác để xem xét sự biến đổi của các dòng lúa đối vớiquang chu kỳ và nhiệt độ. Qua đó tác giả đã xây dựng Giả thuyết về 2 hệ thống gen trong sinh trưởng, phát dục của cây lúa trên quan điểm sinh học phân tử, được đánh giá cao trong bảo vệ luận án tiếnsĩ, đồng thời được báo cáo tại Hội nghị thực vật học quốc tế, Lêningrad, Liên Xô - 1977, sau này công trình được báo cáo tại Hội nghị di truyền học quốc tế lần thứ 15 - New Delhi, Ấn Độ, tháng12/1983; tại Hội nghị quốc tế ở Viện lúa quốc tế. Đặc biệt, từ năm 1986 Viện nghiên cứu Lúa Liên Xô đã dùng giả thuyết này làm một cơ sở khoa học cho quy trình thâm canh tăng năng suất lúa vùngKrasnodar trên diện tích 200.000ha, đạt kết quả tốt.

Các công trình khoa học kỹ thuật của ông trải rộng trên nhiều đề tài, lĩnh vực trong sinh học - nông nghiệp, từ nghiên cứu di truyền sinh học phân tử đến gây tạo giống, từ các giống cây lương thực thực phẩm đến các giống cây rau quả, từ các giống lúa thâm canh cao sản đến các giống lúa gạo chất lượng cao, giàu protein, từ các giống chịu hạn đến các giống chịu úng … thậm chí ngoài giống cây trồng ông còn có công trình lai tạo giống vịt mới. Công trình nào cũng đầy sáng tạo và mang lại hiệu quả kinh tế.

Khả năng tập hợp và sức hút đối với tri thức

GS.Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng có sự hiểu biết sâu rộng trong cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội nhân văn, lại mang chất nghệ sĩ mà coi trọng những sáng tạo và các phẩm giá tinh thần. Dưới cái vẻ bề ngoài thư sinh bình dị (có phần hơi xềnh xoàng) là một con người tư duy bay bổng sắc sảo, giàu trí tưởng tượng nhưng lại hướng tới thực tiễn một cách kiên trì, dẻo dai. Có lẽ vì tin tưởng vào chân lý và năng lực thực chất của mỗi người nên ông ít chú ý tô điểm hình thức, thường giải quyết công việc một cách có tình có lý. Đó là bản lĩnh của một vị lãnh đạo Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, người tập hợp và phát huy đội ngũ trí thức khoa học công nghệ trong và ngoài nước của Việt Nam trên bước đường đổi mới và hội nhập.

Nay tuy bận công tác của Liên hiệp hội Việt Nam , ông vẫn tiếp tục nghiên cứu chọn tạo giống cây trồng và là cố vấn khoa học của Viện cây lương thực và cây thực phẩm.

Chúc mừng Giáo sư Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng về những thành tựu đáng tự hào, lần này lại vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì.

GIÁO SƯ VIỆN SĨ VŨ TUYÊN HOÀNG

Các mốc thời gian trong hoạt động khoa học và xã hội


Tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp Hoa Nam , Trung Quốc: 1960.

Tiến sĩ Sinh học Liên Xô: 1973.

Tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp Liên Xô: 1977.

Giáo sư : 1983.

Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô: 1988 – 1991.

Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Liên bang Nga: 1991.

Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học thế giới đang phát triển TWAS: 1993.

Viện sĩ, Người sáng lập Viện Hàn lâm Khoa học các nước Đông Nam Á: 2005.

Cán bộ giảng dạy Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội: 1961 – 1968.

Viện trưởng Viện cây lương thực và cây thực phẩm: 1978 – 1999.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp kiêm Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp: 1989 – 1993.

Uỷ Viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng: 1982 – 2001 các khoá V, VI, VII, VIII.

Đại biểu Quốc Hội khoá VIII, khoá XI, khóa XII.

Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam từ 1986.

Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam khoá IV (1999 - 2004), khoá V (2004 - 2009).

Phó chủ tịch Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam; Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản: Từ 1988 tới nay.

Chủ nhiệm Chương trình Khoa học kỹ thuật Nhà nước về Cây lương thực: 1978 - 1995.

Giải thưởng Lúa Thế giới: 1998.

Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ: 2000.

CÔNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TIÊU BIỂU

Chuyển một số giống lúa mùa trồng vụ chiêm sang vụ Đông Xuân, tạo ra cơ sở khoa học kỹ thuật cho vụ lúa Đông Xuân mới ở phía Bắc Việt Nam (1961 – 1966).

Từ 1978 tới nay đã có hơn 50 công trình được công nhận cấp Quốc gia, bao gồm: các giống lúa mới thâm canh (Xuân số 2, NN 75 – 6, …); các giống lúa chịu hạn (CH5, CH133, …); các giống lúa chịu ngập úng đầu tiên trên thế giới (U14, U17,…); các giống lúa thâm canh có hàm lượng protein trong gạo cao (10,5 – 11%) đầu tiên trên thế giới, như P4, P6…; các giống khoai lang mới (Số 8, KB1, …); quy trình kỹ thuật trồng khoai tây bằng hạt được xây dựng lần đầu tiên trên thế giới; chọn tạo các giống rau quả mới bằng phương pháp sử dụng ưu thế lai: dưa chuột, cà chua, các giống táo mới như H12, H32, Má hồng, Đào vàng, Đào muộn, … mở ra mùa vụ táo mới ở nước ta; tạo giống Ổi trắng Số 1; lai tạo giống vịt mới Bạch tuyết. Ngoài ra còn xây dựng các biện pháp kỹ thuật thâm canh, gieo thẳng lúa ở phía Bắc Việt Nam ; thâm canh lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Đã cho xuất bản 200 Công trình Khoa học Kỹ thuật trên các báo chí; xuất bản nhiều tuyển tập, sách về Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp.

Cùng với hoạt động sáng tạo khoa học kỹ thuật, ông còn có những sáng tác văn học nghệ thuật mang bản sắc riêng.

Các tác phẩm văn học nghệ thuật:20 tập thơ in chung; in riêng tập thơ Thời gian(2001). Sáng tác khoảng 400 bài tản văn đăng trên tạp chí Thế giới mớitừ 1996 - 2004. Đã xuất bản tập 1 Tản mạn đường dài(2003) và sẽ in tiếp 3 tập tản văn nữa.

Vẽ tranh chân dung, phong cảnh đăng tải trên một số tạp chí, tham gia một số triển lãm Mỹ thuật.

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.