Bảo vệ môi trường trong văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa ở Đắc Lắc
Đắc Lắc vốn là địa bàn cư trú lâu đời của các dân tộc Êđê, M’nông, Giarai,… trước khi người Việt từ nhiều nơi đến ngày một đông ở vùng này. Nhiều người cho rằng việc đốt rừng làm rẫy của các dân tộc ít người sở tại là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên sự cạn kiệt tài nguyên rừng. Điều đó cần phải được suy xét nó đúng đến mức độ nào, ở thời điểm nào. Song khi đi sâu nghiên cứu vào cuộc sống của đồng bào và nền văn hóa của họ, ai cũng thừa nhận rằng: Đồng bào các dân tộc Đắc Lắc, rất có ý thức trong việc bảo vệ môi trường (BVMT). Từ ngàn xưa, mặc dù với trình độ phát triển còn thấp, con người ở đây đã hiểu ra rằng, họ chỉ có thể tồn tại cùng thiên nhiên, coi thiên nhiên là bạn, thậm chí là thần linh. Con người nếu “xúc phạm” thiên nhiên, nghĩa là “xúc phạm” tới thần linh, sẽ bị trừng phạt nặng nề.
Đó là cách nghĩ đơn giản nhưng lại chứa đựng một chân lý cơ bản. Sự linh thiêng hóa thiên nhiên đã hàm chứa một tư duy biện chứng, duy vật về mối quan hệ giữa con người với môi trường. Có thể coi sự ứng xử với thiên nhiên, với môi trường là hành động văn hóa nhân bản của những người dân tộc ít người bản địa Đắc Lắc. Cách ứng xử đó không chỉ thể hiện trong những quan niệm chung chung mà nó được cụ thể hóa trong những văn bản bất thành văn bởi những luật tục truyền miệng, những quy định có tính “pháp chế” của cộng đồng, do cộng đồng đặt ra và thi hành nó. Các quy định này đã được hình thành từ xa xưa, và lưu truyền từ đời này sang đời khác. Điều đó chứng tỏ các quy định rất phù hợp với quan niệm của cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và tuân thủ một cách tự nguyện. Việc thi hành các quy định của luật tục diễn ra dưới sự theo dõi và kiểm soát không chỉ của công đồng mà còn của các thần linh. Bởi thế, bất cứ thành viên nào của cộng đồng cũng đều tuân thủ theo một cách nghiêm túc. Ý thức BVMT được thể hiện rất cụ thể trong các điều khoản, luật tụcvề các mặt bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ loài thú…
Về tập quán bảo vệ rừng.
Việc bảo vệ rừng của người Êđê được đồng bào rất quan tâm. Luật tục và phong tục bảo vệ rừng được thể hiện bằng những câu văn vần truyền miệng dễ nhớ:
Đàn ông thường đốt lửa bừa bãi
Đàn bà thường đốt lửa bậy bạ
Có người đốt lửa mà làm như kẻ điếc, kẻ đui…
Vậy nếu người ta biết người đàn bà đó là ai
Nếu người ta biết người đàn ông đó là ai
Người ta sẽ xử phạt thật nặng
Nếu có của cải, người ta bắt họ phải bồi thường.
Người M’nông, tộc người được coi là cư dân đầu tiên có mặt trên địa bàn Đắc Lắc cũng có ý thức bảo vệ rừng nghiêm khắc. Từ ngàn xưa, cộng đồng M’nông đã lưu truyền các khoản quy định về tội làm cháy rừng như sau:
Chòi bị cháy chỉ một người buồn
Nhà bị cháy cả buôn phải buồn
Rừng bị cháy mọi người đều buồn…
Rừng bị cháy mà không dập tắt
Người đó sẽ không có rừng
Người đó sẽ không có đất
Làm nhà đừng dùng cây nữa
Làm chòi đừng dung cây nữa.
Làm rẫy không phát rừng nữa
Khi thiếu đói đừng đào củ nữa
Bảo nó cất chòi ở trên mặt trăng
Bảo nó cất chòi ở trên ngôi sao
Bảo nó tỉa lúa ở trên tầng mây!
Có lẽ khó có một lời kêu gọi cấm đôt rừng nào đầy đủ và có sức thuyết phục hơn! Bằng lối tư duy cụ thể, các dân tộc bản địa đã nhận thức được sự cần thiết của việc BVMT, đặc biệt là rừng đối với sự tồn tại của con người. Người ta đã hiểu lầm việc đốt rừng làm rẫy của đồng bào M’nông, Êđê là nguyên nhân chính gây nên sự phá rừng ở Đắc Lắc. Trên thực tế hoàn toàn không phải như vậy! Tập quán canh tác của người M’nông, Êđê gắn chặt với việc BVMT. Quá trình chọn rừng làm rẫy đã chứng tỏ rất rõ điều đó. Việc chọn rừng để mở rẫy thường do các già làng đảm nhiệm. Rừng được khai phá không được là rừng đầu nguồn, rừng nguyên sinh, rừng gỗ quý… Đồng bào cho là, những khu rừng đó có thần linh cư ngụ, ai xâm phạm tới sẽ bị thần linh trừng phạt, sẽ gây nên lũ lụt hoặc hạn hán.
Phương thức canh tác của đồng bào là luân khoảnh, nghĩa là những rẫy đã khai thác chừng 4-5 năm, nếu thấy bạc màu, sẽ được bỏ hóa trong vòng 8-10 năm. Trong khoảng thời gian đó, một lớp rừng non sẽ mọc trên đất rẫy cũ, độ phì nhiêu tự nhiên của đất đã được phục hồi. Sau thời gian bỏ hoang hóa, rẫy cũ sẽ được chủ rẫy (hoặc con cháu họ) trở lại canh tác. Canh tác theo phương cách xen canh để bồi bổ cho đất và hạn chế cao nhất quá trình xói mòn, rửa trôi đất. Việc đốt rừng làm rẫy, trên thực tế, chủ yếu là đốt rẫy cũ, với các loại rừng non, gỗ tạp, ít có giá trị kinh tế. Khi đốt rẫy, đồng bào cũng có ý thức bảo vệ những khu rừng xung quanh, bằng cách dọn sạch những cành khô, cỏ úa, tạo nên khoảng trống giữa rẫy của mình với các khu vực khác, tránh không để lửa đốt rẫy lan rộng, gây nên cháy rừng, bởi cháy rừng sẽ bị thần linh trừng phạt, cộng đồng xét xủ.
Về việc bảo vệ nguồn nước.
Là những cư dân nông nghiệp, lại qua kinh nghiệm sống tích lũy từ lâu đời, ý thức bảo vệ nguồn nước dã trở thành quy định bắt buộc của cộng đồng buôn làng. Ở người Êđê, Giarai, bến nướchoặc nguồn nướcđược coi là hinh ảnh tiêu biểu của buôn làng. Việc làm ô nhiễm nguồn nước gây nên hậu quả nghiêm trọng, sẽ bị đưa xét xử và chịu những hình phạt rất nặng. Quan niệm của đồng bào là tại mỗi bến nước chung của làng, đều có một vị thần cư ngụ. Bến nước bị uế tạp làm thần linh nổi giận gây ra dịch bệnh trừng phạt dân làng. Bởi thế hàng năm dân làng phải làm lễ cúng bến nước. Trong buổi lễ đó nghi thức quan trọng nhất là tất cả mọi người trong buôn làng tham gia quét dọn bến nước, làm cho bến nước trở nên sạch sẽ. Họ tin rằng làm như vậy, các vị thần sẽ hài lòng, giúp cho dân làng được khỏe mạnh.
Trong luật tục của người M’nông đồng bào lại có những điều khoản liên quan đến việc bảo vệ nguồn nước ở một khía cạnh khác. Nguồn nước không chỉ liên quan đến cung cấp nước sinh hoạt cho con người mà còn cung cấp cá, tôm, cua, ốc làm thức ăn cho buôn làng.
Bắt con ếch phải chừa con mẹ
Bắt con cá phải chừa con mẹ
Chặt cây tre phải chừa cây con
Đốt tổ ong phải chừa ong chúa.
Việc thuốc cá (dùng các loại vỏ cây, rễ cây có chất làm say cá, giã ra hòa xuống suối, để cá say nổi lên mà bắt), đã hủy hoại môi trường sinh thái của dòng suối, nên bị cộng đồng nghiêm cấm.
Muốn ăn ếch dùng ná mà bắn.
Muốn ăn cá dùng rớ mà vớt
Không thuốc bằng kuau rle
Làm chết sạch cả tép cả cua.
Bon, làng có quyền khiếu nại
Ai thuốc cá có tội với làng
Tội thuốc cá không ai đếm nổi.
Phải chăng từ xa xưa việc đánh cá bằng thuốc làm cạn kiệt khả năng sinh tồn của cá tôm, làm hủy hoại nguồn nước đã được đồng bào nhận thức được tác hại và lên án, trừng phạt. Đồng bào quan niệm rằng những kẻ thuốc cá là những người vì cái lợi nhỏ bé trước mắt, đã phá hoại môi trường sống của chính họ và công đồng.
Về việc bảo vệ các loài thú quý hiếm.
Từ xa xưa, đồng bào các tộc người ít người ở Đắc Lắc đã có những quy định khắc khe để ngăn cản việc săn bắn các loại thú quý hiếm trong rừng như voi, hổ, báo, tê giác, trâu bò rừng... Ai vi phạm những quy định này sẽ bị đưa ra trước cộng đồng buôn làng để xét xử, phải cúng và bồi thường một khoản vật chất lớn. Mặc dù các loại thú quý hiếm trong rừng không phải là của riêng ai, (họ quan niệm:“ Rừng là của chung”,” khu rừng đó là của ông bà”) và săn bắn thú rừng cung cấp thịt cho bũa ăn hàng ngày là một hình thức kinh tế giữ vai trò quan trọng trong đời sống của đồng bào, song việc bảo vệ các loài thú quý hiếm đã được đồng bào thực hiện từ lâu đời. Điều đó được thể hiện trong nền văn hóa truyền thống của họ. Luật tục sẽ xét xử những người đó vì cho rằng đó là những con vật được thần linh nuôi dưỡng. Ai bắn những con vật đó sẽ bị thần linh trừng phạt, làm cho đau ốm, thậm chí vợ con chết (!), bởi vậy phải lễ cúng tạ rất tốn kém. Rõ ràng rằng những quy định này, mặc dù dựa trên những cách giải thích siêu hình, thần bí, nhưng đã góp phần rất lớn trong việc hạn chế sự săn bắn các loài thú quý hiếm.
Có thể nói rằng, đó thật sự là “pháp lệnh” về việc cấm săn bắn các loài thú quý hiếm ra đời vào loại sớm nhất trên thế giới. Điều đáng chú ý là “pháp lệnh” này lại tạo ra do chính những người còn đang phải sống dựa vào rừng, và coi săn bắn hái lượmlà một phương thức kinh tế quan trọng để tồn tại. Song, đó là việc săn bắt những con voi con để thuần dưỡng chúng trở thành voi nhà chứ không săn giết voi. Đồng báo Êđê, M’nông, Giarai không chỉ coi voi nhà là một tài sản lớn mà còn coi chúng la người thân trong gia đình. Voi ốm chủ voi phải làm lễ cúng cho voi khỏi bệnh. Voi chở nặng, kiệt sức, chủ voi phải làm lễ xin lỗi voi vì đã bắt voi làm quá sức. Chủ voi còn phải làm lễ cưới cho voi. Khi voi chết, chủ voi phải làm tang lễ, làm nhà mả và làm lễ bỏ mả như đối với người. Xem thế đủ thấy đồng bào đan tộc ở Đắc Lắc yêu quý voi đến nhường nào. Những người săn bắn, giết hại các loài vật quý hiếm một cách bừa bãi như hiện nay, chính là đã vi phạm những luật tục truyền thống đã được hình thành từ ngàn xưa của đồng bào.
Về việc ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh.
Bảo vệ môi trường cũng đồng nghĩa với việc ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh. Sống trong xã hội trình độ dân trí còn thấp, điều kiện vệ sinh còn thấp kém, việc phát sinh các dịch bệnh luôn đe dọa sự tồn tại phát triển của cộng đồng. Bởi thế, luật tục đã xếp việc làm lây lan dịch bệnh người và gia súc vào những trọng tội và quy định những hình thức phạt nặng đối với loại “tội phạm” này. Luật tục quy định kẻ làm lây bệnh truyền nhiễm cho người khác sẽ phải đền bù thiệt hại do họ gây ra. Không chỉ quy định tội làm lây lan dịch bệnh chung chung, đồng bào còn phân biệt những dịch lớn, dịch nhỏ, bệnh nặng, bệnh nhẹ như ghẻ lở, dịch bệnh đậu mùa, dịch bệnh lây lan trong buôn làng và lây sang các cộng đồng buôn làng khác. Việc lây lan dịch bệnh trong đàn gia súc cũng bị coi là một vi phạm luật tục và bị cộng đồng xét xử nghiêm khắc. Luật tục của người Êđê nêu rất cụ thể các biện pháp cách ly để đề phòng sự lây lan dịch bệnh trong đàn gia súc và quy định mức độ phạm tội của những kẻ vi phạm.
Việc bảo vệ và phục hồi môi trường có ý nghĩa sống còn đối với cộng đồng. Xâm hại tự nhiên hủy hại môi trường bị coi là trọng tội, là sự vi phạm các quyền lợi của các thành viên khác trong cộng đồng nên bị cộng đồng lên án và trừng phạt. Cơ chế kiểm soát những hành vi của mỗi thành viên cộng đồng trong việc bảo vệ, giữ gìn môi trường đã được hình thành từ lâu trong đời sống của đồng bào các dân tộc ở Đắc Lắc và được lưu truyền cho đến tận ngày nay, trở thành một nền văn hóa ứng xử truyền thống giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội. Trong nền văn hóa đó, những quy định về sự ứng xử của con người với con người, giữa con người với thiên nhiênđã dựa trên những nền tảng nhận thức khoa học và mang tính duy vật sâu sắc, do vậy, không chỉ là truyền thống, mà còn mang những ý nghĩa đương đại. Cơ chế đó trong giai đoạn hiện nay vẫn còn hoạt động có hiệu quả và thiết thực biết bao trong cuộc sống bảo vệ môi trường hiện nay, nếu chúng ta biết đầu tư nghiên cứu và vận dụng một cách thích đáng.








