Bảo vệ môi trường - trách nhiệm cao cả của ngành khai thác mỏ
1. Tổng quan về hiện trạng môi trường ngành khai thác than Việt Nam
Ngành khai thác than Việt Nam có lịch sử khai thác lâu dài từ những năm thực dân Pháp đô hộ, trải qua hơn 50 năm sau ngày giải phóng, cán bộ và công nhân ngành khai thác mỏ đã vượt qua rất nhiều khó khăn, từng bước đạt được những thành tích to lớn. Từ năng lực khai thác than hàng năm đạt 4 - 5 triệu tấn nay đã vượt lên đạt 35 triêu tấn vào năm 2006 và 50 - 70 triệu tấn than vào những năm tới. Để đạt được những thành tựu trên đây ngành khai thác mỏ đã cố gắng nỗ lực không ngừng trong công cuộc đổi mới, đi đôi với đổi mới quản lý từ các cấp cơ sở tới các cơ quan quản lý cấp trên là đổi mới kỹ thuật trong khai thác than, trong đó phải khẳng định việc đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng kỹ thuật mới trong các khâu khai thác, sàng tuyển, chế biến, tàng trữ và vận tải than là một trong những tác động rất quan trọng góp phần mang lại thành công cho ngành than mỏ trong những năm gần đây. Hiện nay các mỏ khai thác lộ thiên đều áp dụng trình tự công nghệ chính: khoan, nổ mìn, xúc, gạt, vận tải, sàng tuyển để tiến hành khai thác than.
- Công tác đào hào mở vỉa ở các mỏ lộ thiên sử dụng máy xúc gầu thẳng EKG, có dung tích gầu xúc từ 5 - 12 m 3kết hợp với máy xúc thủy lực gầu ngược mã hiệu PC - 650-5 dung tích gầu 2,8 m 3.
- Toàn bộ công tác xúc bốc hiện nay của các mỏ khai thác lộ thiên được cơ giới hoá bằng các loại máy xúc cáp gầu thuận và máy xúc thuỷ lực gầu ngược (để xúc than, đào hố bơm và đào hào tháo khô mỏ).
- Công tác khoan, nổ: tiến hành khoan nổ mìn bằng máy khoan xoay cầu với đường kính lỗ khoan 250 mm và khoan thủy lực với đường kính lỗ khoan 200 mm.
- Vận chuyển đất đá: bằng ô tô tự đổ trọng tải 12 - 86 tấn.
- Vận chuyển than bằng ô tô tự đổ, có trọng tải 12 - 30 tấn, kết hợp với vận tải bằng băng tải. Than ở các khai trường khai thác được xúc lên ô tô vận chuyển về các bãi chứa, với đặc điểm ở trên sườn núi nên các bãi chứa này được xây tường gạch bao quanh cao khoảng 0.5 m tránh cho than bị trôi đi khi có trời mưa. Các bãi chứa lộ thiên nên mỗi khi ô tô đổ than vào bãi hoặc xúc than chở đi tiêu thụ tại các bãi chứa này lượng bụi thường rất cao, và là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí đối với các mỏ khai thác lộ thiên.
- Tại các mỏ khai thác lộ thiên nước mặt hầu như chảy tự nhiên theo độ dốc vì hầu hết các mỏ lộ thiên thường khai thác ở các độ cao khác nhau, chỉ một số mỏ khi khai thác xuống sâu phải bơm nước từ đáy moong lên (như ở mỏ Cọc Sáu, Cao Sơn) mới xây dựng một hệ thống mương thoát nước chảy ra biển. Tuy nhiên lượng nước thoát ra theo mương rãnh chỉ một phần, phần còn lại thường chảy tự nhiên xuống các sườn núi lâu dần tạo thành các rãnh nước. Có những con suối đã hình thành từ trước khi mỏ còn chưa khai táhc, sau khi công tác khai thác tiến hành lượng đất đá thải trôi lấp đầy dần lòng suối, cản trở dòng chảy gây lụt lội, ảnh hưởng tới đất canh tác nông nghiệp, bồi lấp ra biển… Các hệ thống thoát nước này đều chưa có biện pháp gì để khử các chất như dầu mỡ… các chất thải gây ô nhiễm khác trước khi đổ ra biển cũng như thải vào môi trường. Các mỏ khai thác than hầm lò ở nước ta hiện nay chủ yếu dùng các hệ thống giếng nghiêng, lò bằng, lò xuyên vỉa, để vỉa khai thác than.
- Sử dụng các hệ thống lò thông gió, lò vận tải và các thượng rót than… phục vụ công tác vận chuyển người, vật liệu, thiết bị, đá và than ra ngoài.
- Việc khai thác than ở gương lò chợ chủ yếu là thủ công, kết hợp với khoan, bắn mìn. Hiện nay cơ giới hoá khai thác than đang được tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam quan tâm đầu tư và đã đưa vào thử nghiệm khai thác bằng cơ giới hoá tại mỏ than Khe Chàm. Bước đầu cơ giới hoá khai thác than ở đây đã đưa năng suất lên cao, giảm bớt nặng nhọc cho người lao động và có nhiều triển vọng áp dụng cho các mỏ hầm lò có điều kiện tương tự.
- Tại các mỏ khai thác hầm lò, công tác vận chuyển đất đá trong lò chủ yếu đung goòng đẩy tay hoặc do tàu điện kéo ra khu vực cửa lò sau đó vận tải bằng ô tô chở ra bãi thải, nếu điều kiện địa hình và điều kiện bãi thải cho phép có thể thải đất đá ngay tại cửa lò. Than từ lò chợ được vận chuyển bằng máng trượt, sau đó được đưa lên hệ thống vận chuyển bằng goòng ra cửa lò, hoặc vận chuyển bằng tàu điện cần vẹt kéo ra sân ga dỡ tải sau đó qua hố nhận quang lật, cấp liệu lên băng tải đổ xuống bun ke, chất lên toa xe 30 tấn và vận chuyển bằng đầu máy diezen đến nơi tiêu thụ. Nhìn chung hệ thống vận tải ở trong lò không gây ô nhiễm môi trường không khí bên ngoài.
- Hệ thống kho chứa than các mỏ khai thác hầm lò được đưa ra ngoài mặt bằng, vận chuyển đến các bun ke chứa, đưa lên các toa goòng hoặc đổ lên ô tô để vận chuyển ra bến tiêu thụ. Các mỏ đều có bãi chứa than trên mặt bằng mỏ, do khối lượng than lớn, các phương tiện vận tải là các loại ô tô có trọng tải lớn ra vào cồng kềnh, vì vậy các bãi chứa này đều không được che chắn nên là một trong những nguyên nhân gây nhiều bụi ở khu vực này.
- Lượng nước thải ở các mỏ hầm lò bao gồm nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất, nước thải trong lò được đưa ra ngoài bằng hệ thống rãnh hai bên đường lò, nước thải sinh hoạt bao gồm nước dùng cho sinh hoạt trên công trường, nuớc cho sản xuất bao gồm nước phục vụ cho công tác khoan, nước tưới đường, lượng nước này được chảy tự nhiên. Hầu như toàn bộ lượng nước thải sinh hoạt và nước thải trong lò thải ra môi trường tự do đều không qua xử lý.
Hiện tại ngành khai thác than có hai Công ty làm nhiệm vụ chuyên tuyển than có công suất lớn và có dây chuyền sản xuất hiện đại đó là công ty Tuyển than Hòn Gai và Tuyển than Cửa Ông, ngoài ra tại mỗi công ty sản xuất than còn có các dây chuyền tuyển thủ công, hầu hết các dây chuyền tuyển thủ công đều phát sinh nhiều bụi gây ô nhiễm môi trường. Hàng năm ngành khai thác than đã tiêu thụ một lượng thuốc nổ rất lớn (9.404.491 kg) nhất là trong khai thác lộ thiên (6.225.433 kg). Hiện nay việc sử dụng thuốc nổ đã được cải thiện bằng các loại thuốc tiên tiến giảm thiểu ô nhiễm môi trường nhưng đây vẫn là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí lớn trong ngành mỏ.
Ngoài lượng thuốc nổ trên, hàng năm khối lượng gỗ cho chống lò ở các mỏ khai thác hầm lò cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể, điều này ảnh hưởng tới việc bảo vệ tài nguyên rừng của đất nước, chính vì vậy những năm gần đây ngành than đã áp dụng công nghệ khai thác mới nhằm hạn chế dần lượng gỗ trong khai thác mỏ hầm lò.
Một khối lượng lớn nhiên liệu xăng dầu mỡ tính bằng hàng ngàn tấn được sử dụng đã thể hiện mức độ tiêu hao nhiên liệu hàng năm là rất lớn. Để giảm thiểu lượng nhiên liệu tiêu hao này ngành than cần thiết phải đổi mới thiết bị và công nghệ để ngày càng giảm thiểu việc sử dụng khối lượng nhiên liệu trên. Đối với ngành khai thác than, phế liệu, phế thải trong ngành xuất phát từ các đầu vào chủ yếu kể trên không lớn và nghiêm trọng, mà chủ yếu phế thải của ngành than lại là đất đá thải, nước thải mỏ phát sinh trong quá trình khai thác than và các phế thải có tính chất từ các đầu vào trên. Các phế thải vào nước, không khí, đất, đây là những phế thải có ảnh hưởng rất lâu dài và gây hiệu quả nghiêm trọng đối với môi trường đất, nước không khí.
Kết quả khai thác mỏ lộ thiên đã làm nên biến đổi địa hình khu vực, đồi núi bị san gạt và biến thành moong sâu. Các moong cũ do Pháp khai thác như Hà Lầm sâu gần 100 m. Moong mỏ Cọc Sáu đã sâu hơn 300 m và khai thác dưới mực nước biển -130 m. Bãi thải 3 mỏ lộ thiên Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn trên 100 năm khai thác và đổ thải đất đá chất núi cao hơn 100 m so với mặt biển và kéo dài dọc ven biển từ Cẩm Phả tới Cửa Ông gần 10 km. Đất đá bãi thải trôi trượt bồi lấp sông và biển. Mỏ lộ thiên sau mỗi vụ mưa lớn phải nạo vét hàng nghìn m 3 đất đá. Theo thống kê từ năm 1953 đến năm 1992 vùng Mỏ Quảng Ninh bị bồi lấp, diện tích vũng bùn cát tăng lên 63,436 km 2. Vùng than Quảng Ninh đã sử dụng 17.220 ha đất: cho khai trường: 11.537,5 ha, bải thải: 1.868 ha, mặt bằng và vùng đệm 2.880,8 ha. Sau nhiều năm khai thác mỏ đã làm mất đi trên 705 ha rừng và do chặt phát rừng lấy gỗ chống lò hay dùng cho mục đích sinh hoạt 31.135 ha rừng. Khu Cẩm Phả từ năm 1985 - 1990 đã suy giảm 1.147 ha rừng tự nhiên. Hậu quả việc đổ thải và xói màn đã làm bồi lấp dòng chảy, sông suối và các hồ chứa nước, dung tích chứa nước bị giãn do trôi lấp bãi thải của ao hồ.
- Khai than ở Cẩm Phảm đã làm cho sông Mông Dương cạn dần. Đoạn đầu Ngầm Khe Chàm độ sâu chỉ còn 0,5 m. Sông Uông ở Uông Bí mùa khô chỉ còn ít nước dưới lòng sông. Các hệ thống tưới tiêu nước chính ở Cẩm Phả như Ba tôn, Cửa Ông và Mông Dương đều bị bồi lấp. Hồ Yên Lập trên sông Mip xây dựng năm 1980 với dung tích 118 triệu m 3nước đủ tưới cho 10.500 ha đất nông nghiệp của huyện Yên Hưng và phục vụ cho nước sinh hoạt, sau nhiều năm sử dụng đến nay đã bị đất đá mỏ bồi lấp nên lượng nước giảm đi 4% và chỉ còn đủ tưới cho 3.500 ha đất nông nghiệp.
Hệ thống bẩy hồ chứa nước từ xã Hoàng Quế đến xã Phạm Hồng Thái ở Đông Triều xây dựng có sức chứa 11,7 triệu m 3nước, nay lòng hồ bị bồi lấp dung tích chỉ còn 70%. Hồ Diễn Vọng là nguồn cung cấp nước cho Hòn Gai và Cẩm Phả với công suất 25.000 - 30.000 m 3/ ng. đ. Do tình trạng bồi lấp quá nhiều nên khả năng cấp nước hiện nay khoảng được 15.000 m 3/ ng. đ.
Các mỏ lộ thiên và hầm lò ở khu vực Hòn Gai - Cẩm Phả hàng năm phải bơm khoảng 30 - 40 triệu m 3nước (theo điều tra của dự án JICA): mỏ Đèo Nai 5,3 triệu m 3/ năm, Hà Tu 5,3 triệu m 3/ năm… Hậu quả giảm nguồn nước ngầm tại các mỏ than đã xảy ra trầm trọng cùng với việc xâm nhập nhiễm mặn của nước biển. Khảo sát 150 giếng khoan ở Quảng Ninh thì lượng nước ngầm giảm đi rất lớn. Khu Hạ Long có 9 giếng khoan cấp nước đến nay đã ngừng hoạt động.
Quá trình khai thác mỏ hình thành các diện tích chứa nước mới, đó là các moong khai thác, các khu chứa nước ngầm mới, như các bãi thải, đường hầm, lò chứa nước, trong khu vực đã khai thác… về mùa mưa nước chảy vào mỏ lên tới hàng vài trăm m 3trong ngày đêm. Khai thác mỏ do chất thải, cặn bã làm giảm chất lượng nước. Nước thải có độ pH = 3 - 4 và Fe ++lớn hơn tiêu chuẩn cho phép (Tiêu chuẩn TCVN 593: 2005). Khí độc hại do các nguồn nước có sẵn trong đất đá. Khi khai thác đất đá bị phá vỡ khí độc thoát ra, khí độc sinh ra do nổ mìn và do tiêu hao dầu mỡ của thiết bị.
Sau mỗi vụ nổ ở mỏ lộ thiên, hàm lượng CO trong đám mây bụi là 0,1%; NO 2- 0,02%; ở dưới đất bị phá sâu 1,5 m hàm lượng CO là 10%, NO 2là 0,25%. Mỏ hầm lò khí nổ loại I, khai thác 1000 tấn than sẽ thải ra 5000 m 3khí CH 4. Thiết bị mỏ càng cũ kỹ, chế độ bảo dưỡng không đảm bảo thì khi hoạt động càng thải ra nhiều khí độc. Qua khảo sát ô tô 210 E, khi xe chạy khí CO từ 202 - 204 mg/s; NO116,7 - 175,9 mg/s; Accolein 99 - 138 mg/s.
Theo kết quả nghiên cứu trong khai thác than hầm lò: trung bình cứ khai thác 100 tấn than thì sẽ thải ra 11 - 12 kg bụi tuỳ thuộc vào loại than khai thác. Ở các công trường, khu khai thác, khi làm việc nồng độ bụi vượt 2 - 4 lần tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5937 - 1995). Sau nổ mìn và thông gió 30 ohút, nồng độ bụi ở lò chợ vùng than Uông Bí (than dòn) đạt tới 90 - 98 mg/m 3không khí; ở lò đá đạt tới 100 -115 mg/m 3; Vùng Hạ Long (Công ty than Hà Lầm) đạt tới 128 mg/m 3.
Nước ở hồ Tràng Khê, tràng Bạch, cầu Cuốn ở Mạo Khê do khai thác than nên độ pH = 3,5 - 4,5; vượt tiêu chuẩn cho mục đích bảo vệ thuỷ sản (TCVN 6986: 2001); Tiêu chuẩn nước thải công nghiệp thải vào vùng ven bờ dùng cho mục đích bảo vệ thuỷ sản (TCVN 6984: 2001). Tiêu chuẩn nước thải công nghiệp thải vào khu vực nước hồ dùng cho mục đích bảo vệ thuỷ sản (TCVN 6985: 2001).
Bụi phát sinh nhiều nhất là ở khâu khoan nổ mìn, xúc bốc đất đá và than, đổ thải và vận chuyển.
- Nổ mìn: các mỏ lộ thiên thường nổ mìn lớn, mỗi bãi mìn sử dụng từ 10 đến 50 tấn thuốc nổ. Quá trình nổ mìn tạo ra những đám mây bụi cao hơn 100 - 150 m. Sau khi nổ ở cách xa bãi mìn 30 - 40 m nồng độ bụi từ 600 – 5000 mg/m 3.
- Xúc bốc: Các thiết bị xúc trên mỏ lộ thiên thường rất lớn. Khi máy xúc làm việc với năng suất 175 m 3/h, nồng độ bụi lên tới:205 mg/ m 3không khí. Khi máy ngừng làm việc sẽ giảm xuống 18,5 mg/ m 3không khí.
- Đổ thải: Khi ô tô đổ thải, nồng độ bụi đạt tới 2640 mg/ m 3không khí sau 30 - 40 ph bụi sẽ giảm xuống còn 76 mg/ m 3không khí.
- Vận tải: Lượng bụi phát sinh tuỳ thuộc vào loại phương tiện vận chuyển, chất lượng đường, thời tiết… Nồng độ bụi khi ô tô trọng tải ô tô 27 - 40 tấn chạy qua là: 120 mg/ m 3không khí, cá biệt khi tần suất ô tô chạy liên tục, nồng độ bụi có thể đạt 2.275 mg/m 3không khí.
- Tại nhà máy tuyển than Cửa Ông: Nồng độ bụi trong xí nghiệp từ 25,5 - 149 mg/m 3không khí. Nồng độ bụi trên đường ô tô xung quanh xí nghiệp từ 90 -127 mg/m 3không khí.
- Tại thị trấn vùng mỏ: Thị xã Cẩm Phả: Bụi đioxit Silic đạt 106 ± 27 g/m 3tháng. Thị trấn Cọc Sáu: nồng độ bụi hứng đạt 1.455 ± 93 g/m 3tháng. Thị trấn Cửa Ông: nồng độ bụi hứng đạt 184 ± 7 g/m 3tháng.
- Sự cố mối trường: mỏ lộ thiên trong mùa mưa bão hay bị sập lở mỏ, bãi thải gây chết người và gây thiệt hại lớn về tài sản. Mỏ hầm lò khi khai thác thường gặp nhiều sự cố như sập đổ lò, cháy nổ khí mêtan, bục nước. Đến nay, theo thống kê đã có 22 vụ cháy nổ khí CH 4. Vụ nổ khí mê tan ở mỏ Mạo Khê năm 1999 làm chết 19 công nhân và làm bị thương một số người khác. Bục nước ở mỏ than Thống Nhất, Xí nghiệp than Khe Tam… làm chết 6 công nhân. Công ty than Thống Nhất phải đóng cửa khai thác từ mức +110 - + 52 và gây thiệt hại lớn về tài sản.
2. Các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Trong cơ chế thị trường, ngành công nghiệp mỏ nước ta đang đứng trước những khó khăn và thử thách to lớn: phải tự chứng minh sự tồn tại và phát triển của ngành công nghiệp mỏ. Để thực hiện được điều này, phải khẳng định rằng lực lượng khoa học kỹ thuật gánh một trách nhiệm nặng nề trong sự nghiệp đổi mới này.
Trong quá trinh khai thác các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh, cũng như sản phẩm thải của các nhà máy tuyển đều tác động đến môi trường tự nhiên. Trong nhưng năm tới cần nghiên cứu giảm thiểu ô nhiễm môi trường (ô nhiễm bụi, nước mỏ, vấn đề trôi lấp bãi thải, phá rừng phòng chống sự cố trong khai thác, vận chuyển và tuyển khoáng). Cần có quy hoạch tổng thể về bảo vệ môi trường cho cả vùng Quảng Ninh. Thiết lập các trạm kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Song song với các nội dung nghiên cứu triển khai, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, một phần quan trọng không thể thiếu được đó là các vấn đề về quản lý. Các vân đề về quản lý công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ, các quy chế về đầu tư cho khoa học – công nghệ và ứng dụng công nghệ mới cũng như vấn đề cơ chế hoạt động của các cơ sở nghiên cứu phải đảm bảo khuyến khích được cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật bám sát sản xuất, khuyến khích các cơ sở mạnh dạn ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
2.1 Các giải pháp trước mắt
- Tiến hành thiết kế bổ sung công nghệ bảo vệ môi trường, xử lý các chất thải rắn có chứa các chất độc hại, đảm bảo đúng quy hoạch quản lý các loại chất thải.
- Tiến hành xây dựng phương án hoàn phục môi trường trong khu vực mỏ để hướng cho công tác thiết kế, thực hiện khai thác theo quy hoạch tạo điều kiện thuận lợi cho công tác cải tạo, hoàn phục môi trường sau khi ngừng hoạt động.
2.2 Giải pháp lâu dài
- Hiện đại hoá công nghệ khai thác mỏ. Cần thiết phải tăng cường đầu tư cho công tác hiện đại hoá công nghệ khai thác mỏ, trong mọi trường hợp phải đạt được sự thống nhất cao, đồng bộ giữa công nghệ sản xuất và công nghệ môi trường. Ngoài ra còn phải phù hợp với điều kiện của mỏ nhỏ và phân tán.
- Tăng cường đầu tư cho công tác nghêin cứu khoa học và công nghệ xử lý các chất thải, từ nghiên cứu phương pháp đến triển khai ứng dụng vào sản xuất. Đặc biệt là các chất thải có chứa các thành phần độc hại cần được ưu tiên giải quyết trước như phương pháp ngăn ngừa dòng axit mỏ, phương pháp xử lý các nước thải của công nghệ có sử dụng hoá chất…
- Xây dựng quy hoạch phát triển công nghiệp khoáng sản ở cấp tỉnh nhằm xác định loại khoáng sản, mỏ nào, thời gian nào và quy mô khai thác thích hợp có hiệu quả kinh tế cho cả nước và địa phương, và bảo vệ được tài nguyên và môi trường.
- Đối với các mỏ chuẩn bị đưa vào khai thác, khi thiết kế phải lập quy hoạch khai thác, biện pháp xử lý chất thải và phương án hoàn phục môi trường tự nhiên cũng như các vấn đề có liên quan đến môi trường kinh tế - xã hội của khu vực, sau khi ngừng khai thác.
- Tăng cường công tác đào tạo để nâng cao khả năng khao học kỹ thuật cho cơ quan quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường ở các địa phương có thể đảm đương được các công việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy trình công nghệ khai thác, xử lý chất thải trong các cơ sở khai thác mỏ.
- Xây dựng chính sách khuyến khích và hỗ trợ triển khai ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, các công nghệ tiên tiến vào khai táhc khoáng sản.
3. Kết luận
Trong thời gian tới, ngành khai thác than Việt Nam cần phải không ngừng đầu tư, tập trung hoá sản xuất hoàn thiện và đổi mới công nghệ để nâng ao sản lượng khai thác, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Để hạn chế các tác động tiêu cực của các hoạt động khai thác mỏ tới môi trường cần phải thực hiện tốt những biện pháp, công nghệ sản xuất sạch đề ra thì môi trường vùng than Quảng Ninh mới giữ được mức độ như hiện nay và ngày càng trong sạch hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Số liệu khảo sát về khí tượng thuỷ văn, tài liệu về địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình sức khoẻ cộng đồng khu vực khai thác mỏ.
2. Các số liệu đo đạc, phân tích về các chỉ tiêu môi trường tại khu vực khai thác thuộc phạm vi quản lý của Tổng công ty Than Việt Nam (nay là Tập doàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam).
3. Dự thảo quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015, có xét triển vọng 2025.
4. Đánh giá hiện trạng khai thác tài nguyên khoáng sản và tác động của chúng đến môi trường tự nhiên tại một số vùng trọng điểm. Lê Như Hùng. Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội 1995.
5. Các tài liệu tham khảo có liên quan đến công trình và công nghệ xử lý để giảm thiểu ô nhiễm môi trường vùng mỏ.
6. Nghiên cứu đánh giá tác động môi trường và đề xuất các giải pháp bảo vệ môi trường đảm bảo sự phát triển bền vững của Tổng công ty Than Việt Nam tại các vùng than Quảng Ninh (Uông Bí, Hòn Gai và Cẩm Phả) - Đoàn Văn Kiển, Hà Nội 1998.
7. Báo cáo đánh giá tác động môi trường của một số Dự án (Mở rộng sản xuất kinh doanh công ty than Cao Sơn - Công ty cổ phần than Cao Sơn - Công ty Tư vấn, Triển khai công nghệ và Xây dựng - Mỏ địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội, 2007).
Nguồn: Công nghiệp mỏ, 1 - 2008, tr11.