Bảo hiểm nông nghiệp: Cần sự can thiệp của Chính phủ
Chặng đường gian nan
Bảo hiểm nông nghiệp đã được Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) triển khai thí điểm từ năm 1982 tại huyện Nam Ninh và Vụ Bản (Nam Định). Sau hai năm, chương trình này dừng lại do chuyển đổi cơ chế từ kinh tế HTX sang kinh tế hộ nông dân. Năm 1993, Bảo Việt lại bảo hiểm cây lúa tại 16 tỉnh, điển hình là Hà Tĩnh, nơi chịu ảnh hưởng thiên tai nhiều nhất, nhưng sau 5 năm, chương trình này lỗ 2,5 tỷ đồng. Ngoài ra, Bảo Việt còn triển khai các sản phẩm bảo hiểm chăn nuôi, bảo hiểm cây công nghiệp, bảo hiểm cháy rừng... Tất cả đều... “đoản mệnh”.
Gần đây, Groupama Việt Nam, một doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài (Pháp) cũng “chào thua” loại hình bảo hiểm này, bởi trong 6 tháng đầu năm 2004, doanh thu của công ty chỉ vẻn vẹn... 5 triệu đồng. Mặc dù trước đây Groupama rất tự tin khi nói rằng họ sẽ “cung cấp dịch vụ về sản xuất nông nghiệp và cuộc sống nông thôn, bảo hiểm cây trồng - vật nuôi, tài sản, thiệt hại” với triết lý: “Nếu không có nền nông nghiệp hiện đại thì không có bảo hiểm nông nghiệp. Ngược lại không có bảo hiểm thích hợp thì cũng không có hiện đại nông nghiệp”. Tuy vậy, nhà đầu tư này cũng đã quyết định ngừng tất cả các hoạt động khai thác mới và nộp đơn lên Bộ Tài chính đề nghị cho phép mở rộng các dịch vụ hoạt động, không bó hẹp trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Lý do để Groupama đưa ra quyết định trên là bảo hiểm nông nghiệp vốn có nhiều rủi ro, nhất là ở Việt Nam , thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra nên hiệu quả kinh doanh thấp.
Thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy, bảo hiểm nông nghiệp tuy cần thiết nhất nhưng lại không có mặt trên thị trường Việt Nam trong khi các loại hình khác đang phát triển rất năng động và ổn định. Các doanh nghiệp mới chú trọng đến những lĩnh vực dễ thu lợi nhuận, chưa động tới các lĩnh vực “xương xẩu” như bảo hiểm nông nghiệp. Chính vì thế, người nông dân vẫn chưa tìm được “dũng sĩ” của mình. Ông Hoàng Xuân Điều, nguyên Trưởng phòng Bảo hiểm nông nghiệp (Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam) nay được điều về làm Phó phòng Bảo hiểm xe cơ giới cho rằng, nếu chỉ bảo hiểm theo hướng kinh doanh đơn thuần thì không doanh nghiệp nào mặn mà với bảo hiểm nông nghiệp vì nguy cơ thua lỗ cao.
Người dân có nhu cầu nhưng chưa hiểu cặn kẽ
Các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm không “mặn mà” còn người nông dân lại chưa có thói quen mua bảo hiểm. Anh Minh Hoà, chủ một trại gà lớn ở Đông Anh (Hà Nội) cho biết: “Sau dịch cúm gia cầm năm 2003, tôi định mua bảo hiểm chăn nuôi để giảm thiệt hại, thua lỗ nhưng không mấy tin tưởng vào doanh nghiệp bảo hiểm. Bài học “xin” bồi thường như vụ tranh chấp giữa Groupama và một số hộ nuôi tôm khiến tôi lo sợ”. Ông Tạ Văn Sáu ở xã Kim Long (Tam Dương – Vĩnh Phúc) cho rằng: “Từ trước đến nay, các chủ trang trại lớn chưa hề được ai giới thiệu về loại hình bảo hiểm nông nghiệp nên họ không biết khi tham gia sẽ được hưởng lợi gì. Tôi nghĩ, nếu hiểu được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm thì nhiều trang trại có tiềm lực kinh tế sẵn sàng tham gia”.
Theo điều trị của Hội Nông dân Việt Nam, có tới 87% nông dân có nhu cầu bảo hiểm tài sản của mình, nhất là cây lúa. Tuy nhiên, điểm yếu của họ hiện nay là sự hiểu biết về bảo hiểm nói chung, bảo hiểm nông nghiệp còn hạn chế. Ngay cả doanh nghiệp kinh doanh nông sản cũng trong tình trạng tương tự. Đơn cử, Công ty Bảo Việt Bình Phước là đơn vị tiên phong triển khai thực hiện bảo hiểm vườn cây cao su cho hộ nông dân và các nông trường khi có sự cố cháy hoặc gãy đổ do lốc. Lúc đầu dịch vụ này được nhiều đơn vị đón nhận và có gần 15.000ha vườn cao su của các nông trường được bồi thường với số tiền lên tới 190 triệu đồng. Nhưng khi mủ cao su rớt giá, các đơn vị nhà nước lần lượt rút lui. Đến thời điểm này, Bảo Việt Bình Phước chỉ còn khai thác 4 hợp đồng của các hộ trồng cao su tiểu điền trên diện tích 2.361ha.
Cũng có trường hợp, do quy định của ngân hàng khi vay vốn, chủ vườn cao su và các doanh nghiệp kinh doanh hạt điều phải có hợp đồng tham gia mua bảo hiểm cho sản phẩm của mình. Để đối phó, các ông chủ này cũng mua bảo hiểm nhưng thời hạn chỉ... 3 tháng hoặc sau khi đã được vay vốn, họ quay lại yêu cầu huỷ hợp đồng.
Ngoài những hạn chế nêu trên, kiểu canh tác, chăn nuôi quy mô hộ gia đình manh mún, phân tán, năng suất thấp... cũng là lý do khiến bảo hiểm nông nghiệp không thể phát triển.
Làm gì?
Muốn bảo hiểm nông nghiệp được nhiều người dân, doanh nghiệp tham gia cần đáp ứng cả hai điều kiện sau: Một là, có lợi cho người nông dân và phù hợp với khả năng tài chính của họ. Hai là, doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải có lãi.
Theo nhận định của Bảo Việt, bảo hiểm nông nghiệp chỉ có thể thực hiện thành công khi nó trở thành một chính sách của Nhà nước. Chẳng hạn ở Philippin, nhà nước đã ban hành sắc lệnh về bảo hiểm mùa màng và thành lập tổng công ty bảo hiểm nông nghiệp riêng. Chính phủ tài trợ 50% chi phí bảo hiểm cho nông dân và buộc tất cả các hộ khi vay vốn của ngân hàng phải mua bảo hiểm. Khi có rủi ro lớn do thiên tai, nếu tổng công ty không đủ khả năng chi trả thì nhà nước cho vay ưu đãi hoặc trợ cấp để công ty bồi thường cho dân.
Còn nước ta, hiện nay vẫn chưa có một cơ chế, chính sách nào cho bảo hiểm nông nghiệp. Trước khi quyết định giải tán phòng bảo hiểm nông nghiệp, Bảo Việt đã có công văn đề nghị Bộ Tài chính, Chính phủ xem xét phương án hỗ trợ để loại hình này tiếp tục hoạt động; song đến nay vẫn chưa nhận được câu trả lời. Kinh nghiệm của một số nước triển khai thành công cho thấy, bảo hiểm nông nghiệp không chỉ là công việc của doanh nghiệp bảo hiểm hay cá nhân người nông dân mà phải có sự chung vai gánh vác của toàn xã hội, được cụ thể hoá bằng những chính sách của Nhà nước. Ở các nước này bảo hiểm thời tiết - tức là chỉ bảo hiểm những rủi ro thời tiết, điều con người chưa kiểm soát được - được áp dụng rộng rãi.
Trong một cuốn sách của FAO khẳng định. Nếu chính phủ không can thiệp thì đừng nói đến bảo hiểm nông nghiệp. Chúng ta chưa có mô hình “chuẩn” về loại hình dịch vụ này. Nên gắn các chính sách về bảo hiểm nông nghiệp với chính sách tài chính trong nông nghiệp – nông thôn để tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi thu hút các doanh nghiệp cũng như khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm. Đối với một nước thường xảy ra nhiều thiên tai như nước ta, nếu Nhà nước dùng một phần tư ngân sách để hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm (thậm chí gộp quỹ phòng chống thiên tai – lũ lụt vào bảo hiểm), hỗ trợ doanh nghiệp thì bảo hiểm nông nghiệp mới có thể hoạt động hiệu quả.
Ông Phùng Đắc Lộc- Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Bảo hiểm nông nghiệp phải là loại hình kinh doanh đặc biệt
Biện pháp duy nhất để dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp có thể tồn tại và phát triển là sự hỗ trợ từ Chính phủ, nghĩa là loại hình này không thể phát triển được bằng con đường kinh doanh độc lập. Nhà nước có thể dùng một phần từ nguồn ngân cứu trợ thiên tai hằng năm để hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm, hỗ trợ doanh nghiệp hình thành quỹ bảo hiểm nông nghiệp. Thêm vào đó, cầm có sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp kinh doanh, xuất nhập khẩu nông sản... Trách nhiệm bảo hiểm cũng cần minh bạch, rõ ràng, tránh tình trạng kiện tụng như Groupama với các hộ nuôi tôm ở ĐBSCL. Cũng không nên tham vọng biến ngay một “vùng trắng” thành một thị trường bảo hiểm phát triển ổn định, năng động; phải có quá trình, trước mắt, Nhà nước nên đưa ra cơ chế hỗ trợ để áp dụng cho một số đối tượng và chọn một số rủi ro để bảo hiểm nhằm hình thành thị trường. Phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở nước ta có thể là một chặng đường dài, khó có thể đạt hiệu quả ngay trong vài năm tới.








