Bản chất của văn hóa dân gian là cái đẹp của cuộc sống
Chúng ta đã biết, văn hoá dân gian là phương thức sinh hoạt của nhân loại, do điều kiện vật chất của xã hội và truyền thống lịch sử quyết định, nó thay đổi theo những điều kiện khác nhau của thời đại, khu vực, dân tộc, v.v.. Phương thức sinh hoạt của dân chúng muôn màu muôn vẻ. Cùng là ẩm thực nhưng ở các khu vực khác nhau, các thời đại khác nhau sẽ có những khác biệt rất lớn. Có nơi ăn gạo, có nơi ăn bánh mì, có nơi ăn bánh ngô, có nơi không ăn chất bột mà chỉ ăn thịt, có nơi người nguyên thuỷ còn ăn thịt người... Về cách ăn, có nơi dùng đũa, có nơi dùng dĩa, có nơi ăn bốc,... Chúng ta đối xử với các loại hình văn hoá dân gian khác như thế nào? Có một số người cho rằng văn hoá dân gian của chính họ là tốt đẹp, nhưng họ lại phủ định hoặc coi thường những loại hình văn hoá dân gian khác, thậm chí có học giả phương Tây cho rằng các dân tộc phương Đông đều là “người nguyên thuỷ”. Về sau, người ta phát hiện ra khái niệm dã man và văn minh cũng chỉ là tương đối, trong văn hoá dân gian của các dân tộc đều có cái tốt và cái xấu, cái ưu và cái khuyết, cho nên đã xuất hiện thuyết văn hoá tương đối. Quan điểm lí luận này đến nay vẫn có những ảnh hưởng rất lớn.
Thuyết văn hoá tương đối cho rằng các loại hình văn hoá dân gian không sợ rằng mình thuộc loại dã man lạc hậu, mà tuỳ theo điều kiện của từng lúc, từng nơi đều là hợp lí, đều đáng trân trọng. Ưu khuyết của văn hoá dân gian chỉ là tương đối, rất khó xác định tiêu chuẩn tốt - xấu. Thuyết này phản đối kì thị chủng tộc, phủ định quan điểm cho rằng phương Tây là trung tâm, mang ý nghĩa tiến bộ. Nhưng khi tiến hành phân tích khoa học bằng phương pháp biện chứng thì có thể tìm thấy những điểm thiếu sót của nó.
Mọi loại hình văn hoá dân gian đều là những sáng tạo tập thể của quần chúng nhân dân. Người ta dựa vào những quy luật thẩm mĩ để sáng tạo, những sản phẩm mà họ sáng tạo ra trong điều kiện ở địa phương đó, vào thời điểm đó, với cách nhìn của họ, chúng đều là những thứ tốt đẹp nhất, cho nên mọi người không quy ước nhưng đều mô phỏng theo, phổ biến và kế thừa, tuân thủ theo thông lệ của nó, lấy cái mới làm thành phong tục mới, rồi trở thành khuôn mẫu của cuộc sống, khuôn mẫu văn hoá. Bởi vì lí tưởng thẩm mĩ, điều kiện khách quan của người dân địa phương ấy ở thời gian ấy quyết định. Sau khi xã hội thay đổi dẫn đến những thay đổi của điều kiện khách quan và chủ quan, văn hoá dân gian cũng thay đổi theo. Trước đây người ta cho rằng bó chân nhỏ là đẹp, ăn thịt người..., về sau, họ lại cho rằng như thế là không đẹp, thì nó trở thành phong tục lạc hậu, đã có những phong tục tập quán mới tốt đẹp hơn thay thế chúng. Như thế, văn hoá dân gian đã thay đổi, phát triển theo sự tiến bộ xã hội. Xu hướng chung của sự thay đổi là càng thay đổi càng đẹp. Quy luật phát triển của văn hoá dân gian chính là quy luật của thẩm mĩ. Đến đây chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng bản chất của văn hoá dân gian chính là thẩm mĩ của cuộc sống.
Các loại hình văn hoá dân gian đều hình thành, phát triển, thiên biến vạn hoá theo lí tưởng thẩm mĩ không giống nhau. Các thời đại, các khu vực, các dân tộc có lí tưởng thẩm mĩ, tiêu chuẩn thẩm mĩ không giống nhau, vì vậy đã sản sinh ra các loại hình văn hoá dân gian không giống nhau. Đây chính là tính tương đối của cái đẹp quyết định. Nhưng trong cái tương đối bao hàm cái tuyệt đối. Trong bất kì sự vật nào đều có sự thống nhất của tương đối và tuyệt đối. Cái đẹp của văn hoá dân gian cũng như vậy, cái đẹp tuyệt đối được thông qua hình thức thể hiện của cái đẹp tương đối. Trong bất kì cái đẹp tương đối nào đều hàm chứa những phân tử của cái đẹp tuyệt đối. Tôi cho rằng những phân tử của cái đẹp tuyệt đối chính là cái “chân” của nội dung và hình thức của nó, như thế cũng phù hợp với quy luật khoa học, cũng là sự thống nhất của chân, thiện, mĩ. Bởi vì rất nhiều cái đẹp tuyệt đối có thể phân biệt tốt xấu, tiến bộ, lạc hậu của văn hoá dân gian. Ví dụ tập quán vệ sinh, có nơi tuỳ tiện đại tiểu tiện trên mặt đất, có nơi đào hố để làm nhà vệ sinh, có nơi lại ngồi bô, có nơi hiện đại thì dùng bệ xí giật nước. Những phong tục này đều có lí do tồn tại của nó, nhưng không thể nói chúng đều giống nhau, cũng không thể nói đến tiên tiến và lạc hậu, nếu không sẽ vứt bỏ việc thay đổi phong tục tập quán, để nỗ lực xúc tiến những tiến bộ xã hội.
Hơn hai ngàn năm trước ở Trung Quốc đã đưa ra nhiệm vụ “thay đổi phong tục tập quán” nhưng mãi đến “Cách mạng văn hoá” vẫn chưa nắm vững được quy luật thay đổi phong tục tập quán, để đến lúc “phá bỏ bốn cái cũ” diễn ra rất dữ dội, những gì là phong kiến, mê tín ngày càng trở nên tồi tệ và kết quả nhận được là ngược lại. Thực ra, trong bất kể hiện tượng tôn giáo, mê tín nào cũng có những phân tử tốt đẹp, nó phù hợp với nhu cầu tâm lí của con người và nhu cầu phát triển của xã hội. Có rất nhiều thành tựu nghệ thuật cổ điển phải dựa vào tôn giáo để bảo tồn và sáng tạo. Việc sùng bái thần cây đã đem đến tác dụng rất tốt đối với việc bảo vệ rừng, dưới tấm áo khoác mê tín chứa đựng ở bên trong hạt nhân của sự cân bằng sinh thái khoa học, “cái đẹp tôn giáo” này rất cần phải phân tích bảo tồn. Nếu không bảo tồn và phát triển những phân tử của “cái đẹp tuyệt đối” trong phong tục tập quán cũ, nếu không dùng những phong tục tập quán tốt hơn (phong tục tập quán khoa học hoá hơn, nghệ thuật hoá hơn) để thay thế chúng, thì những phong tục tập quán cũ không thể ra khỏi vũ đài lịch sử. Cho nên, muốn thay đổi phong tục tập quán tuyệt đối không thể “trước phá sau lập”, “phá chính là lập”, mà nên và chỉ có thể làm ngược lại – “trước lập sau phá”. Lúc các điều kiện chủ quan và khách quan đều đã được chuẩn bị, phong tục mới tốt đẹp đã lan rộng, liệu có còn chỗ đứng cho phong tục cũ nữa không? Cho nên, điều kiện vật chất để sáng tạo ra phong tục tập quán mới là cơ bản, thay đổi quan niệm thẩm mĩ và tiêu chuẩn thẩm mĩ của quần chúng mới là con đường tất yếu của việc thay đổi phong tục tập quán, như thế xem như đã nắm vững được bản chất của văn hoá dân gian.
Nguồn: hoidantochoc.org.vn (03/10//06)








