Kỳ họp thứ hai của Quốc hội đã tiến hành tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Số đại biểu Quốc hội có mặt 294, một số đại biểu ở cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ vì kháng chiến không ra được. Cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, đọc diễn văn khai mạc hồi 8 giờ 25 ngày 28-10-1946. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay mặt Chính phủ tuyên bố lý do triệu tập Quốc hội.
Ông Nguyễn Văn Tạo, đại biểu Quốc hội Rạch Giá, vừa ở Nam Bộ mới ra phát biểu ý kiến. Khi ông Tạo ở diễn đàn bước xuống. Hồ Chủ tịch bắt tay rồi ôm lấy ông hôn, nước mắt của Hồ Chủ tịch lăn trên gò má, nhiều người bùi ngùi ứa lệ.
Ông Phạm Thúc Tiêu, đại biểu dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa, phát biểu và kêu gọi các dân tộc thiểu số đoàn kết, không để quân thù chia rẽ, tranh thủ độc lập cho Tổ Quốc.
Quốc hội thông qua các điện văn gửi: Đồng bào toàn quốc; các chiến sĩ; các kiều bào ở Pháp, Xiêm, Ai Lao và Cao Miên; Liên hợp quốc; Tưởng Giới Thạch và nhân dân Trung Hoa; Giáo hoàng; Ấn Độ, Nam Dương và Phi Luật Tân.
Chiều ngày 28-10, ông Dương Đức Hiền, thay mặt Ban Thường trực Quốc hội trình bản dự thảo nội quy của Quốc hội.
Sáng ngày 29-10, Quốc hội bầu Chủ tịch đoàn, thư ký đoàn và trật tự đoàn. Chủ tịch đoàn gồm 5 đại biểu: Cụ Tôn Đức Thắng, các ông: Phạm Văn Đồng, Đỗ Đức Dục, Trần Hữu Dực, Ngô Tử Hạ… Thư ký đoàn gồm 6 đại biểu. Trật tự đoàn gồm 12 đại biểu.
Chiều ngày 29-10, ông Lê Huy Vân, thay mặt tiểu ban nội quy, thuyết trình bản dự thảo nội quy.
Chiều ngày 29-10, cụ Nguyễn Văn Tố, trưởng ban Thường trực Quốc hội đọc báo cáo về hoạt động của Ban trong thời gian qua…
Chiều ngày 30-10, ông Vũ Đình Hòe, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đọc báo cáo của Chính phủ về hoạt động của Chính phủ trong một năm chính quyền.
Ông Phạm Văn Đồng, Trưởng phái đoàn của Quốc hội sang Pháp, đọc báo cáo đặc biệt về giao thiệp với Chính phủ Pháp. Bản báo cáo nói về đường lối ngoại giao của Chính phủ và cuộc can thiệp giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp từ lúc Chính phủ thành lập (3-1946) qua các giai đoạn:
Bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946; cuộc đàm phán trù bị Đà Lạt. Đồng thời với sự hoạt động của phái đoàn ở Pháp; cuộc đàm phán Fontainebleau đi đến bản thỏa hiệp tạm thời ngày 14-9-1946.
Ông Nguyễn Văn Tạo, đại biểu Rạch Giá, nhân danh đoàn đại biểu Nam Bộ, đề nghị Quốc hội suy tôn Hồ Chủ tịch xứng đáng là người công dân số 1 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Quốc hội vỗ tay nhiệt liệt tán thành.
Sáng ngày 30-10, cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, trả lời các câu hỏi của các đại biểu Quốc hội sau đây:
- Ông Lê Trọng Nghĩa-đại biểu Nam Định hỏi về cuộc thảo luận về Quốc kỳ. ông Nguyễn Duy Thanh-đại biểu Quốc dân đảng, hỏi tại sao Ban Thường trực Quốc hội đã sắp xếp các Đại biểu Quốc hội Quốc dân đảng ngồi sang phía cực hữu, đáng lẽ để ngồi gần đại biểu Đảng Xã hội mới phải.
- Ông Trần Huy Liệu-đại biểu Nam Định, nói: “Sự sắp đặt chỗ ngồi ở Quốc hội không có gì quan trọng cả. Quan hệ là ở chỗ việc làm, là đường lối chính trị của các đảng. Các đường lối ấy ra sao dân chúng trông vào đều nhận rõ cả, chứ không phải dân chúng nhìn vào con đường chính trị của các đảng bằng chỗ ngồi ở Quốc hội” (…).
Chiều ngày 30-10, Chính phủ trả lời các câu hỏi của các đại biểu Quốc hội.
Hồ Chủ tịch trả lời các câu hỏi sau đây:
- Về ông Phó chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam và ông nguyên Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh:các ông ấy bây giờ không có mặt ở đây. Lúc này nước nhà đương gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào mà trao cho người ấy công việc lớn, mà các ông ấy lại bỏ đi, thì các ông ấy phải hỏi lương tâm thế nào. Trả lời như thế là đủ. Những người bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh vác việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ năng lực mà gánh nổi. Nay không có họ ở đây, chúng ta cũng cứ gánh được như thường. Nhưng nếu các anh em biết nghĩ lại, chống đối không nổi với lương tâm, với đồng bào, với Tổ quốc mà trở về, thì chúng ta vẫn hoan nghênh.
- Về ông Chu Bá Phượng: các báo Pháp có đăng một vài tin. Nhung tin ấy có thật hay không thì đã qua rồi, vả lại cũng chẳng có ảnh hường gì lớn, xin thôi đừng nhắc đến.
Nếu trong Chính phủ còn có những người khác lầm lỗi, thì lỗi ấy tôi xin chịu, xin gánh và xin lỗi với đồng bào.
- Tạm ước ngày 14-9 có ảnh hưởng đến các hiệp ước ký sau không?-Trong xã hội loài người, cái gì mà chẳng có ảnh hưởng đến cái khác. Tuy vậy, những sự điều đình sau này không bị ràng buộc được. Bản tạm ước này, tùy theo sự thi hành thế nào, sẽ chỉ đẩy cho những điều đình sau chóng tới kết quả một cách dễ dàng.
Ông Võ Nguyên Giáp-Chủ tịch Quân ủy hội, trả lời các câu hỏi về quân sự:
- Tình hình bộ đội hiện nay:Bộ Quốc phòng hết sức chu toàn về mọi phương diện: quân y, quân nhu, lương thực, sinh hoạt phí… (…).
- Người Pháp định lập những xứ biệt lập như xứ Nùng, xứ Thái, Chính phủ đối phó bằng cách nào?Ở hội nghị Đà Lạt, người Pháp đã nêu vấn đề thiểu số ra. Nhưng trong thư từ công hàm liên lạc với ta, họ không bao giờ đả động đến ý chia rẻ ấy. Chính phủ cương quyết đối phó bằng quân sự, chính trị. Về quân sự luôn luôn chuẩn bị tự vệ. Về chính trị, đã vận động cho anh em thiểu số hiểu rằng họ chỉ có một Tổ quốc Việt Nam (…).
Cụ Huỳnh Thúc Kháng-Bộ trưởng Bộ Nội vụ, phát biểu ý kiến: :Nước nhà đã vượt qua nhiều khó khăn, đó là công lao của Hồ Chủ tịch. Nhưng trong nước có những việc không hay, đó là lỗi tại tôi”. Ông Cù Huy Cận, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, trả lời các câu hỏi về việc bắt các đại biểu Quốc hội Quốc dân đảng. Có mấy đại biểu Quốc hội Quốc dân đảng bị bắt như ông Lê Ninh, Hoàng Ngọc Bách, Phan Kích Nam, Vũ Đình Chi đều có tài liệu rõ ràng. Trước khi bắt những ông ấy, đã hỏi ý kiến Ban Thường trực Quốc hội và đã được thỏa thuận. Tất cả những người này đã trực tiếp hay gián tiếp can vào các vụ bắt cóc, tống tiền, như vụ Ôn Như Hầu…
Ông Vũ Đình Hòe-Bộ trưởng Tư pháp, trả lời các câu hỏi về:
- Pháp luật Việt Nam có áp dụng với người ngoại quốc không và về việc hối lộ:Nước Việt Nam là một nước tự chủ, thì người ngoại quốc sống ở Việt Nam phải theo luật Việt Nam. Việc hối lộ thì hiện nay Chính phủ đương bài trừ, chẳng hạn trước đây tội hối lộ thuộc tiểu hình thì nay Chính phủ đã đề nghị đổi thành đại hình;
- Về tài sản của Pháp:việc giải quyết vấn đề này sẽ căn cứ thỏa thuận của các tiểu ban hai bên và căn cứ vào pháp lý.
Ông Lê Văn Hiến-Bộ trưởng Bộ Tài chính, trả lời các câu hỏi về:
- Giầy bạc Việt Nam vì sao chưa có lưu hành ở Bắc Bộ?Mấy tháng đầu lưu hành ở Trung Bộ, in ra không kịp; đó là chính. Chính phủ có nhận được nhiều điện văn từ khắp nơi Trung, Nam, Bắc yêu cầu phát hành giầy bạc Việt Nam (…).
- Có phải Pháp đã ký với Trung Quốc một hiệp ước biến Hải Phòng thành một thương cảng tự do không?Việt Nam là một nước có chủ quyền. Bất cứ việc gì có can hệ đến Việt Nam mà không có Việt Nam tham dự vào, nước Việt Nam có quyền không biết đến.
Ông Chu Bá Phượng-Bộ trưởng Bộ Kinh tế, trả lời các câu hỏi về kinh tế. Ông Phương chia ra làm hai loại: một là những câu chất vấn về cách tổ chức của Bộ Quốc dân kinh tế, hai là những công việc Bộ đã làm.
Trả lời các câu hỏi trên, ông đã đưa cả một chương trình vĩ đại của Bộ và đọc liên tiếp… Các đại biểu Trần Văn Cung, Hoàng Văn Sức, Nguyễn Văn Phiếm đặt thêm các câu hỏi về công việc tiếp tế từ Bắc vào Nam, việc tiếp tế đường, muối cho nhân dân và công chức Hà Nội, về việc Bộ Kinh tế đã trả đường, muối chưa… Ông Phượng lúng túng không trả lời rõ ràng, sau đó ông mời các vị đã chất vấn đến Bộ Kinh tế, ông sẽ đưa trình giấy má, sổ sách để các ông xét (…).
Sau khi các Bộ trưởng trả lời xong các câu hỏi, các đại biểu Quốc hội sau đây lần lượt chấn vấn Chính phủ.
Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ trả lời các đại biểu:
“Chính phủ hiện thời mới thành lập xong, hãy còn thanh niên. Quốc hội bầu ra được hơn tám tháng lại còn thanh niên hơn nữa. Vậy mà Quốc hội đã đặt những câu hỏi thật già dặn, sắc mắc khó trả lời, đề cập đến tất cả những vần đề có quan hệ đến vận mệnh nước nhà. Với sự trưởng thành chính trị và sự quan tâm về việc nước ấy, ai dám bảo dân ta không có tư cách độc lập.”.
Rồi Người trả lời từng câu hỏi:
- Vì sao Chính phủ đã đem đề nghị thay đổi quốc kỳ?Chính phủ không bao giờ dám thay đổi quốc kỳ, chỉ vì một vài người trong Chính phủ đề nghị việc ấy lên, nên Chính phủ phải để qua Ban Thường trực Quốc hội xét. Tình thế từ ngày ấy đến giờ, biến chuyển nhiều, lá cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sĩ Việt Nam ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu cũng được chào kính cẩn. Bây giờ trừ khi cả 25 triệu đồng bào, còn ra không ai có quyền gì mà đòi hỏi thay đổi nó (nói tới đây, mắt Người sáng quắc lên, giọng Người vang to lên và dằn mạnh từng tiếng một, trái hẳn với vẻ điềm đạm lúc thường).
- Về việc đoàn kết mà ông Trần Đình Chi nêu lên,đó là một câu chuyện thương tâm, không muốn nói đến nữa. Tin một vài người kia, ta nên quên đi là hơn. Còn cái tin ông Nguyễn Hải Thần tự xưng là Tổng tư lệnh hải, lục, không quân Việt Nam? Việt Nam không có hải, lục, không quân, thì ông Nguyễn Hải Thần cứ việc mà làm Tổng tư lệnh và nếu Việt Nam không có hải, lục, không quân mà ông Nguyễn Hải Thần tổ chức được hải, lục, không quân cho Việt Nam thì cố nhiên chúng ta hoan nghênh.
- Về Chính phủ liêm khiết,thì Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các ủy ban là đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ-đã trị và sẽ trị cho kỳ hết.
- Còn nói rằng tạm ước 14-9 là bất bình đẳng như ông Trần Huy Liệu đã nói,Chính phủ không dám nhận như thế. Với bản tạm ước ấy, mỗi bên nhân nhượng một tí, ta bảo đảm cho Pháp những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở đây thì Pháp cũng phải đảm bảo thi hành tự do dân chủ ở Nam Bộ và thả các nhà ái quốc bị bắt bớ. Còn nói Pháp không thành thật thi hành tạm ước thì ta nói vơ đũa cả nắm. Pháp cũng có người tốt người xấu. Tôi có thể nói quyết rằng, nhân dân Pháp bây giờ đại đa số tán thành ta độc lập và thống nhất lãnh thổ…
Hồ Chủ tịch tuyên bố thay mặt Chính phủ hiện thời xin từ chức, trao quyền lại cho Quốc hội để Quốc hội theo nguyên tắc dân chủ mà bầu ra Chính phủ mới.
Ông Trần Hữu Dực trong Chủ tịch đoàn thay mặt Quốc hội nhận lời từ chức của Chính phủ.
Theo đề nghị của ông Trần Hữu Dực, trong Chủ tịch đoàn, Quốc hội thông qua ba nghị quyết sau đây:
a. Nghị quyết về nội trị:
- Tán thành chính sách đại đoàn kết của Chính phủ.
Cần đề phòng mưu mô chia rẽ để đảm bảo sự an ninh của quốc dân và tiến hành công cuộc kiến thiết quốc gia.
b. Nghị quyết về ngoại giao:
- Chính sách ngoại giao với nước Pháp căn cứ trên chủ quyền của Việt Nam, với lực lượng toàn thể quốc dân làm hậu thuẫn, phải cương quyết tranh thủ sự thống nhất lãnh thổ và nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam.
c. Nghị quyết tán thành chính sách chung của Chính phủ: Nhận sự từ chức của Chính phủ. Ủy nhiệm Cụ Hồ Chí Minh lập Chính phủ mới theo nguyên tắc đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái.
Hồ Chủ tịch cảm ơn Quốc hội và tuyên bố:
“Lần này là lần thứ hai mà Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận.
Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan phát tài.
Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam.
Tuy trong nghị quyết của Quốc hội không nói đến hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết.
Theo nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích: trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất nước nhà.
Anh em trong Chính phủ mới sẽ dựa vào sức của Quốc hội và quốc dân, dầu nguy hiểm mấy cũng đi vào mục đích mà quốc dân và Quốc hội đã trao cho”.
Nguồn: Xưa và Nay, số 251&252, tháng 1-2006