Á Nam Trần Tuấn Khải
![]() |
Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh.
Tay cầm trầu giọt lệ chạy quanh,
Anh xơi một miếng cho bõ chút tình em nhớ thương.
Đó là một cuộc chia ly như tất cả những cuộc chia ly từ nghìn thuở trên đất nước Việt Nam có người phụ nữ giữ khăn trầu, cầm một miếng trầu đưa cho người nam, nhưng ở đây đã có dấu vết của thời cơ khí hiện đại, báo hiệu chia ly không còn là tiếng ngựa hí, tiếng nhạc reo, tiếng nước róc rách và tiếng gió phần phật buồm thuyền… mà là tiếng còi tàu tu tu như hồi chuông nghiệt ngã của số phận, cắt đứt tình duyên đôi lứa.
Anh Khóa ơi! Còi tu tu tàu sắp kéo cầu,
Đường trần em sắp sửa gánh sầu từ đây
Trông anh, em chẳng nỡ rời tay,
Nỗi riêng em dặn câu này, anh chớ có quên.
Anh Khóa ơi! Người ta lắm bạc nhiều tiền,
Anh em ta phận kém duyên hèn mới phải long đong
Một mình anh nay Bắc lại mai Đông
Lấy ai trò chuyện cho khuây lòng lúc sớm khuya.
Anh Khóa ơi! Chữ tương tư vai gánh nặng nề,
Giang hồ anh sớm liệu về kẻo nữa em mong.
Tính toan sao cho phỉ chí tang bồng;
Ở nhà em cũng dốc một lòng giữ phận thuyền quyên…
Người làm bài Tiễn chân anh Khóa xuống tàuthì tôi không lạ, đó là nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, người làng Quang Xán, huyện Mỹ Lộc, ngoại thành Nam Định. Thân sinh Á Nam, cụ Cử nhân Trần Văn Hoán là chỗ thanh khí với Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San và Trần Tế Xương. Điều tôi băn khoăn: Anh Khóa này là ai mà hoài bão chí lớn lao muốn làm sao cho “phỉ chí tang bồng”.
Đến năm 1984, đọc chú thích cuốn Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải(Nxb Văn học) thông qua lời tác giả kể về xuất xứ bài thơ, tôi được biết: “Khoảng năm hai mươi tuổi, tác giả thường xuyên giao du với các nhà chí sĩ, những bậc lão thành, cũng như những người thiếu tráng, ngày đêm mài miệt ngâm vịnh văn chương, nghiên cứu các học thuyết đông tây kim cổ. Lúc đó trong đám anh em, có nhiều người vì mang lòng phẫn uất với bọn thực dân Pháp, trốn tránh đi nước ngoài để tìm phương kế cứu giang sơn Tổ quốc. Trong thời gian đó, tác giả cũng đã có phen lần ra tận biên thùy ở miền Móng Cái, mong lân la sang bên Trung Quốc để tìm kiếm bạn đồng tâm. Chẳng may công chuyện không thành, đành buồn bã quay về. Sau đó còn có nhiều phen lần theo các đường khác để đi (như vào Trung kỳ, Nam kỳ) song cũng đều thất vọng”. Tuy vậy trong đám bạn bè cùng chí hướng của ông, những người gặp được cơ hội len lỏi ra nước ngoài cũng không phải là ít. Vì thế, trong lúc tiễn đưa bạn hữu, tác giả đã chan chứa cảm xúc, viết ra bài hát trên để tả tấm lòng tha thiết của mình. Bài hát rất phổ biến trong Nam, ngoài Bắc hồi đó.
Tập thơ đầu có in bài Tiễn chân anh Khóa xuống tàu,tuy đã ngụy trang như lấy nhan đề Duyên nợ phù sinh, phụ đề chữ Hán Kim sinh lụy, bài mở đầu Hồn lụy, ký tên Lụy Giả, cho giống với những cuốn sách đang lưu hành; nhưng dụng ý của Á Nam mượn thơ văn để khích động lòng yêu nước, gây chí tự lập, nghĩa hợp quần đã được người đương thời nhận ra. Nguyễn Văn Vĩnh đứng trên lập trường thân Pháp, viết một bài trên tạp chí Annam Nouveau,dùng giọng úp mở quanh co, kết tội Trần Tuấn Khải quá thiên về tinh thần quốc gia mà quên nói đến tình cảm thông thường của con người.
Tạp chí Nam Phong(tháng 5 - 1921) viết: “Đã lâu nay, các văn thơ xuất bản không được máy quyển hay, nay mới lại được đọc tập Duyên nợ phù sinhcủa ông Trần Tuấn Khải này thật là văn chương có giá trị… Nhiều bài hát thật là ha, như bài Tiễn chân anh Khóa xuống tàuvà thứu nhất là bài Gắnh nước đêmlời giản dị mà ý tứ sâu xa biết bao nhiêu (…). Cả tập thơ chỉ được một bài này, cũng đáng khen, huống còn nhiều bài hay nữa”. Hoàng Ngọc Phách viết trong báo Trung Bắc Tân, văn số 1.282: “Tự bảo mình rằng lúc thơ phú tàn canh, mà còn có thơ này, lời lẽ thanh thoát, ý tứ dồi dào, cảm hoài những việc vẩn vơ mà cao thượng”… “Có người bảo văn ông có nhiều vẻ buồn, ký giả cũng tưởng như vậy”… “Nếu vì quốc văn, vì lý luận, hai vai thân thế, một gánh giang san, cuộc văn chương dẫu đến khi tàn, mà ngọn bút quan hoài biết bao giờ cho ráo mực” mà ông buồn, thì cái buồn ấy cũng có vẻ cao thượng”. Tú tài Nam Định Nguyễn Xuân Xứng viết: “… Quyển Duyên nợ phù sinh… văn chương mực thước, lời lẽ thâm trầm, chẳng khác chi một mảnh gương trong soi suốt nhân tình thế thái, so với bốn chữ nhan đề quả là thích hợp…
Một quyển văn thư mấy đoạn tình,
Kiếp người dan díu nợ phù sinh.
Non sông dấu cũ văn chương mới;
Mưa gió năm châu luống giật mình
Những lời khen ngợi trên đây còn mang tính chất bóng gió, nhưng đến Thiếu Sơn trong Phê bình và cảo luận(1933) đã nói ro ràng hơn: “Ông Khải thường hay cảm về thời thế, mà nặng lòng với đất nước non sông, nên ôgn thường hay ngâm vịnh về lịch sử để dựa theo mà khóc cảnh tang thương…
Coi lịch sử gương kia còn tỏ, mở dư đồ đất nọ chưa tan.
Giang san sau này vẫn giang san,
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Vì ai? Độc giả cũng dư biết vì ai. Song lịch sử đã đầy những sự vẻ vang quá khứ, mà hiện nay trông lại, chỉ thấy rặt những cảnh thảm mục thương tâm, thì những nhà chí sĩ lo đời, há được bình an tọa thị?
Bởi vậy mà anh Khóa mới lên tiếng hô hào, rắp mong được nhiều người hưởng ứng”.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại(1941) cũng viết: “Có lẽ ông (Trần Tuấn Khải) là một thi sĩ mà cách đây không lâu các bài ca đã được nhiều người hát nhất. Ở Bắc kỳ, hai bài Anh Khóacủa ông, khôgn đâu là không biết, nhất là trong xóm bình khang, các đào nương lại thường hay hát lắm. Hai bài Anh Khóaphổ thông đến nỗi người ta đã lấy cả vào đĩa hát ở miệng những tay danh ca bậc nhất.
Những việc ấy đủ chứng ra rằng hai bài Anh Khóađã hợp với tính tình của nhiều người, người học thức cũng như người ít học. Mà không cứ hai bài Anh Khóa, những thi ca của Trần Tuấn Khải hầu hết đều nhẹ nhàng, dễ hiểu, đều có tính cách phổ thông như thế cả”.
Trong sách không thấy nói đến việc bài Anh Khóasở dĩ được hưởng ứng nhiệt liệt vì nó đáp ứng đúng tình cảm yêu nước của quần chúng. Nhưng sau này, khi đọc hồi ký Những năm tháng ấy(1987), được Vũ Ngọc Phan cho biết: “Bài Anh Khóacủa Trần Tuấn Khải xẩm họ hát ơi ới khắp nơi thì không sao, nhưng đưa vào sách ( Nhà văn hiện đại- HA) thì bị xóa liền”, chúng ta mới hiểu đoạn nói về nội dung yêu nước của Anh Khóa đã bị kiểm duyệt thực dân xóa bỏ.
Sau loạt bài Tiễn chân anh Khóa xuống tàu, Gửi thư cho anh Khóa, Mong anh Khóa… Á Nam đã viết những bài có nội dung yêun ước, cụ thể, mãnh liệt hơn, như Văn tế Đức Trần Hưng Đạo(in trong tập thơ Với sơn hà 1(1936) với lời kêu gọi hùng hồn: “Hai mấy triệu nào con nào cháu, mài tim gan trông nếp cũ cùng theo. Muôn nghìn năm nào gái nào trai, luyện vây cánh sấn đường mây thẳng trỏ”, nghe như Văn tế Phan Châu Trinhcủa Phan Bội Châu.
Cuốn Hồn tự lậptập II (1928) do Á Nam viết bằng văn xuôi, nội dung thuật chuyện ba nhà nữ cách mạng Nga, do Nhà in Nữ lưu thư quán, Gò Công, xuất bản.
Còn bài viết đề cuốn Hồn tự lập IIthì lại phảng phất giọng văn của Lương Khải Siêu, người cha tinh thần của Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc. Trong cuốn Hồn tự lập I(1927), Á Nam nêu tấm gương đấu tranh của nhà yêu nước Ấn Độ Gandhi, chống thực dân Anh. Chủ nghĩa yêu nước của Á Nam đã thấm nhuần tinh thần dân chủ và quốc tế. Sở dĩ như vậy vì Á Nam không những đã đọc tân thư của Trung Quốc mà còn đọc cả sách chữ Pháp, ông đã dịch nhiều bài thơ của Alfred de Musset, Victor Hugo… sang tiếng Việt.
Sau khi thực dân Pháp bắt giam và cấm lưu hành tác phẩm của Á Nam, không nhà xuất bản nào dám in sách của ông nữa. Lúc toàn quốc kháng chiến tháng 12 - 1946 nổ ra ở Hà Nội, ông mang được một rương đựng đầy bản thảo thơ văn cùng gia đình đi tản cư ba bốn chỗ, sau mới về ngụ ở làng Sơn Lộ, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, thì rủi bị giặc Pháp tới nơi đốt phá tan thành không còn sót được một phần mảnh chữ nào. Mãi sau này ông mới nhớ lại được một số bài đưa in trong cuốn Với sơn hà tập II(1949).
Lúc còn ở Bắc, ông đã theo kháng chiến ở Bưng Vân Đình chợ Đại một thời gian. Nhưng kỳ diệu thay sức sống bất khuất của thành phố Sài Gòn, chính ở đây, Á Nam đã tìm được chỗ xứng đáng trong cuộc chiến đấu của nhân dân thành phố chống đế quốc Mỹ và tay sai. Ông đã tiếp xúc với nhiều hội đoàn dân chủ nhất là phong trào Tự quyết và thường đến họp với tổ chức này từ năm 1964.
Năm 1966, Trần Tuấn Khải được bầu làm chủ tịch danh dự của Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc cùng với giáo sư Dương Minh Thới. Lời phát biểu mạnh mẽ của ông trong lễ ra mắt ngay trước “Hạ viện” Sài Gòn, được mọi người hết sức hoan nghênh.
Năm 1967, Trần Quang Khải được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp hội Văn học nghệ thuật, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Văn hóa. Năm 1972, có lần ông được đă vào vùng giải phóng Long An họp hội nghị suốt một ngày.
Sau tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968) Trần Tuấn Khải làm việc dịch thuật cổ văn ở Phú Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, nhưng ông đã dùng phòng làm việc của ông ở thư viện Quốcgia làm nơi gặp gỡ của anh em công tác thành. Những năm 1968 - 1970, cán bộ chỉ đạo hoạt động nội thành bao giờ cũng nêu tên ông đầu tiên trên các bản kiến nghị đấu tranh, như phong trào đấu tranh đòi hòa bình, dân sinh và dân chủ. Trong bài Mừng xuân Ất Mão (1975)nhà thơ đã linh cảm sắp dến ngày giải phóng.
Sau 30 - 4 - 1975, Trần Tuấn Khải làm cố vấn Hội Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Để cảm ơn Cách mạng mang lại cuộc đởi đời nhà thơ đã viết: Hơn tám mươi năm lộn kiếp đây, Tuổi đời lên một tính từ nay… Khi hai nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận từ miền Bắc vào Nam, đến nhà thăm Á Nam, hôm ấy cụ còn yếu mệt, đang nằm giường bệnh, nghe anh Huy Cận cười hỏi: “Nay anh Khóa đã về, bà Khóa đã hả lòng chưa?”, thì cụ Á Nam bất giác tươi tỉnh, sau khi tiễn bạn ra về, cụ đã viết ngay bài Mừng anh Khóa về(1975).
Ta nghĩ mình ta cũng nực cười,
Sống trong thanh bạch vẫn yên vui.
Lấy câu trung nghãi khuyên con cháu,
Mượn tiếng văn chương gọi giống nòi.
Nghĩa cả giang sơn ghi đáy dạ,
Chuyên đời danh lợi gác ngoài tai.
Tám mươi tám tuổi xuân còn mãi,
Còn vững lòng son chẳng đổi đời.
Gần một thế kỷ cống hiến cho sự nghiệp của đất nước và văn học, Á Nam Trần Tuấn Khải đã thể hiện trọn vẹn đúng như tâm nguyện của cụ buổi đầu: Góp cùng kim cổ lưng bầu huyết, Gửi với sơn hà một áng văn.