Giống như Jean Lacouture, báo chí địa phương ca ngợi đặc điểm của thành phố Genève và thời tiết ôn hoà của khí hậu vào cuối tháng tư năm 1954. Nhưng chớ có dựa vào thời tiết để dự báo thành công của hội nghị. Báo Gazette de Lausaneviết: “Hiếm có những cuộc đàm phán ngoại giao được mở đầu với những triệu chứng ít thuận lợi như lần này. Chưa có một cuộc đấu tranh quanh bàn trải thảm xanh nào lại tập hợp một số lớn người tham gia, mà ai cũng quyết tâm không chịu lùi một phân cho lập trường của mình. Phải lạc quan lắm mới hy vọng được dù đã có những lời khẳng định của một số trưởng đoàn về thành công của hội nghị. Đấy là điều người ta cảm thấy ở Genève vài giờ trước khi khai mạc hội nghị. Chí ít, người ta cũng có thế thấy, hội nghị là một dịp cho nước Trung Hoa cộng sản được xuất hiện hầu như chính thức trên bàn cờ ngoại giao quốc tế” 1 Nhiều vấn đề gai góc vẫn được treo đấy. Người ta không biết nên gọi tên hội nghị là gì. Cuối cùng, chính báo chí đã quyết định đặt cho nó cái tên là “hội nghị không tên”, như về sau người ta gọi là “hội nghị châu Á”. Khi quyết định triệu tập vào ngày 18 tháng 2 ở Berlin, bộ trưởng của bốn cường quốc chỉ đồng ý ghi hai điểm vào chương trình nghị sự, Triều Tiên và Đông Dương, vấn đề trên bắt đầu hôm 26 tháng 4, vấn đề thứ hai ngày 8 tháng 5, đề sau đấy tiếp tục song song.
Vị trí của Trung Quốc ở đâu?
Nhưng vấn đề khó khăn nhất là vị trí và vai trò của Trung Quốc. Câu hỏi này phụ thuộc vào chủ tịch đoàn của hội nghị, và những mối quan tâm thông tục hơn như hình dáng của bàn hội nghị. Để thấy tính phức tạp hãy quay trở lại phía sau một tí.
Khi hiệp định ngừng bắn ở Bàn Môn Điếm được ký ngày 27 – 7 – 1953, Liên Xô trước tiên đưa ra ý tưởng về một hội nghị có 5 bên, với sự tham gia của CHND Trung Hoa. Đối với ba cường quốc phương Tây, không có chuyện mời Trung Hoa cộng sản tham dự vào những vấn đề châu Âu. Mùa thu, 1953, Liên Xô chấp nhận nguyên tắc một hội nghị bốn bên cấp bộ trưởng chủ yếu để bàn về châu Âu và vấn đề an ninh: đấy là hội nghị Berlin họp từ 25 tháng 1 đến 18 tháng 2 để giải quyết vấn đề nước Áo, việc thống nhất nước Đức và an ninh Châu Âu. Nhưng cuộc thảo luận về vấn đề châu Âu nhanh chóng bị sa lầy và người ta tập trung thảo luận dự thảo của Molotov đưa ra ngay từ ngày đầu để đưa vào chương trình nghị sự “Biện pháp làm giảm căng thẳng trong quan hệ quốc tế và triệu tập hội nghị các bộ trưởng Ngoại giao Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô và CHND Trung Hoa”.
Mọi người đều phản đối, nhất là Dulles và Bidault không muốn nghe nói đến tên Trung Quốc. Mấy tuần lễ trôi qua, cộng thêm tình hình suy thoái về quân sự của Pháp ở Đông Dương, khiến Bidault trở nên mềm dẻo hơn và chỉ đòi hỏi là Trung Quốc phải tỏ rõ thiện chí hoà bình trước khi được mời vào bàn đàm phán. Cuối cùng, Mỹ cũng thuận theo gợi ý của Bidault, được Anh khéo léo ủng hộ, quyết định triệu tập hội nghị ngày 26 tháng 4 ở Geneve. Cuối cùng để xoa dịu Liên Xô đang tìm cách bảo vệ danh dự của đồng minh Trung Hoa, Eden đã tìm ra được sự thoả hiệp tốt bằng gợi ý không phân biệt nước lớn nước nhỏ, người đứng mời và nước được mời, tuy biết rằng đối với Mỹ không có vấn đề coi Trung Quốc ngang hàng như Liên Xô đòi hỏi. Sau nhiều cuộc thảo luận, đi đến quyết định Mỹ sẽ mời Nam Hàn và 14 nước đã tham chiến ở Triều Tiên, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên sẽ do Liên Xô mời, và nhượng bộ cuối cùng là tiếng Trung Hoa được công nhận là ngôn ngữ chính thức trong hội nghị bên cạnh tiếng Triều Tiên. Như vậy, không có vấn đề việc Trung Quốc tham gia Hội nghị về châu Á sẽ đưa đến sự công nhận chính phủ Bắc Kinh. Nhượng bộ cuối cùng của Liên Xô khiến Trung Quốc rất bất bình và sẽ trở thành một trong những nguyên nhân gây nên sự rạn nứt Xô Trung sau này.
Cụ thể hình dáng bàn hội nghị cũng được giải quyết mà theo báo Journal de Genevengày 23 tháng 4 thì: “Người ta đi đến công thức đặt 19 đoàn đại biểu ngang hàng: chủ tịch và hai phụ tá ngồi trên bục giữa hai dãy bàn quây thành hình bán nguyệt. Cái công thức “nghị viện” đó sẽ xoá bỏ mọi sự ưu đãi giữa hai phái đoàn dự hội nghị.” 2
Còn về chủ tịch hội nghị về Triều Tiên, sau sự ép buộc của Mỹ, người ta quyết định giao cho hoàng thân Wan Waithayakhon, Bộ trưởng Ngoại giao vương quốc Xiêm (Thái Lan), cùng lần lượt chia sẻ với Molotov và Eden . Khi bàn về vấn đề Đông Dương thì hai đồng chủ tịch là Molotov và Eden sẽ thay nhau làm. Như vậy Foster Dulles tránh được việc thay phiên nhau làm chủ tịch tất yếu sẽ đưa đến cho Trung Quốc cơ hội điều hành hội nghị ít ra là một lần!
Cuộc thảo luận về Đông Dương mở màn…
Các phái đoàn đã nhanh chóng nhận thấy họ đang đi đến thất bại về vấn đề Triều Tiên. Cuộc đàm phán không đi đến đâu hơn là sự khẳng định của hai phía về việc ngừng bắn. Ngay từ ngày đầu, Đông Dương đã vượt lên trên vấn đề Triều Tiên, được đưa lên trang nhất báo chí cũng như trong hành lang của Cung các Quốc gia. Báo Gazette de Lausannera ngày 4 tháng 5 chỉ dành 40 dòng cho Triều Tiên trong khi để 500 dòng nói về việc sắp mở phiên họp về Đông Dương, về việc mời Việt Nam đến Geneve và về ý định của Dulles rời bỏ hội nghị để thay thế bằng người phụ tá là John Bedell Smith.
Nhận thấy không thể tiến triển hơn và do thiếu nhân tố quyết định từ sau ngày ký kết ngừng bắn, nhóm 16 nước quyết định ngừng cuộc đàm phán ngày 15 tháng 6. Quyết định đó có tác động quyết định đến thái độ của Chu Ân Lai, cho đến lúc đó vẫn rất cứng rắn.
Với tư cách là một cường quốc đang lên, Trung Quốc không thể chấp nhận một hội nghị ngoại giao lớn đầu tiên mà mình tham dự, hơn nữa lại liên quan đến một quốc gia láng giềng, lại có thể kết thúc bằng thất bại. “Dưới mắt Bắc Kinh, hội nghị này phải chứng tỏ cho dư luận thế giới biết rằng các vấn đề châu Á có thể dễ dàng giải quyết bằng một hội nghị của 5 cường quốc thế giới chứ không phải là của LHQ (mà Trung Quốc chưa phải là thành viên) do chính phủ Mỹ giật dây”. 3Từ đó TQ thấy cần thiết phải thực hiện vài nhượng bộ trong hồ sơ Đông Dương, đó là cái mà Chu Ân Lai sẽ làm bằng việc tách Việt Nam khỏi vấn đề Lào và Campuchia, điều mà Pháp và Anh đòi hỏi.
Trong khi đó, ngày 8 tháng 5, khi tiếng súng ở Điện Biên Phủ còn nóng bỏng, thì cuộc thảo luận về Đông Dương được mở đầu. Đối mặt với vấn đề Đông Dương, ngoài 4 cường quốc và Trung Quốc, còn có hai đoàn đại biểu Việt Nam, phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng dẫn đầu và phái đoàn của vua Bảo Đại do Trần Văn Đỗ, Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Ngô Đình Diệm mới thành lập dẫn đầu cùng với phái đoàn của Lào và Campuchia. Các cuộc thảo luận gay go kéo dài 2 tháng rưỡi, để kết thúc vào tối ngày 20 sang ngày 21 tháng 7 vào lúc 3 giờ 45 sáng.
Các trưởng phái đoàn chỉ họp phiên toàn thể có 4 lần, phần chủ yếu của đàm phán diễn ra trong 23 phiên họp hạn chế, và chủ yếu là trong nhiều cuộc gặp tay đôi giữa các trưởng đoàn, tiến hành nhiều lần trong ngày. Sau một tháng rưỡi bàn cãi dài dòng không đi đến đâu, mỗi bên đều bám vào lập trường của mình mặc cho tình hình quân sự và thất bại ở Điện Biên Phủ, cuộc thương thuyết thực sự chỉ được khởi động với việc Mendès France đến Geneve và mở đầu các cuộc tiếp xúc giữa Trung Quốc, Pháp và đại biểu Việt Minh.
Khi mở đầu hội nghị, không khí rất căng thẳng. Điện Biên Phủ thất thủ đã đặt phái đoàn Việt Minh vào thế mạnh, Bidault không thể nuốt trôi sự thất bại nhục nhã đó của nước Pháp và luôn hy vọng vào một sự can thiệp của Mỹ, mặc dầu thất bại của chiến dịch Con ó. Ở Genève, ông Bộ trưởng Pháp luôn luôn muốn nói theo giọng kẻ cả. Đường nét lớn trong kế hoạch của ông ta là tách trường hợp Lào và Campuchia ra khỏi Việt Nam . Vì theo ông, sự có mặt của Việt Minh trên đất Lào và Campuchia rõ ràng là sự xâm lược của ngoại bang và giải pháp chỉ dựa trên việc rút hết quân của ông Giáp ra khỏi hai nước này. Trong khi đó thì Việt Nam đang trở thành một cuộc nội chiến đòi hỏi giải pháp khác. Bidault được Eden và Dulles theo đuôi ở điểm đó. Ông đòi hỏi ngừng bắn tiên quyết và tập trung quân của hai bên vào những khu vực đồng nhất theo tình hình chiến sự. Kế hoạch đó được gọi là ‘da báo”. Hơn nữa Bidault còn đòi hỏi giải tán các lực lượng không chính quy của Việt Minh, một lực lượng vũ trang quan trọng của tướng Giáp và chiếm giữ phần lớn đất đai Việt Nam .
Đối diện với ông là Hồ Chí Minh, mặc dầu những năm tháng chiến tranh và thiếu thốn, vẫn không mất đi vầng hào quang. Đại diện của ông ở Geneve là con người trung thành và thông minh Phạm Văn Đồng, đã trả lời ông bộ trưởng Pháp bằng một kế hoạch 7 điểm, được tóm tắt thành 4 điểm:
- Nước Pháp thừa nhận độc lập hoàn toàn của ba nước Đông Dương.
- Lập một lịch rút quân của Pháp
- Tổng tuyển cử dưới sự giám sát của LHQ.
- Thừa nhận quyền lợi kinh tế và chính trị của Pháp ở mỗi vùng.
Hồ Chí Minh còn hứa sẽ gia nhập khối Liên hiệp Pháp.
Cuộc đàm phán nhanh chóng bị sa lầy và biến thành cuộc đối thoại giữa những người điếc.
Trước sự dẫm chân tại chỗ của hội nghị Geneve, Quốc hội Pháp đã biểu quyết không tín nhiệm chính phủ Laniel ngày 12 tháng 6. Ngày hôm sau, Pierre Mendès France (PMF) được tổng thống Coty mời ra lập chính phủ mới. Là một người ôn hoà và trung lập, từ năm 1950 Mendès France đã tìm cách giải quyết vấn đề Đông Dương bằng việc công nhận độc lập và đi đến giải pháp đàm phán.
Cuộc đàm phán được giải toả
PMF bắt tay ngay vào việc giải toả tình hình ở Geneve với tư cách là thủ tướng chính phủ kiêm bộ trưởng Ngoại giao. Ông đã dũng cảm đặt ra sự thách thức là sẽ tiến hành trong vòng một tháng, đến ngày 20 tháng 7, để giải quyết cuộc khủng hoảng, nếu không sẽ yêu cầu tổng động viên và xin từ chức. Thời hạn ngắn ngủi đó cũng buộc đối phương phải tính đến các nhượng bộ, vì nếu thất bại thì người sẵn sàng nhất để thoả hiệp trong chính giới Pháp sẽ phải ra đi.
Với quyết định đó ông đã trực tiếp đối thoại với Molotov, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng, PMF đã đem đến một thay đổi lớn trong nhịp độ đàm phán. Người TQ và ngườiViệt Nam đã biết tiếng ông thủ tướng Pháp nên nhanh chóng hiểu rằng nước Pháp đã quyết tâm ra khỏi chiến tranh.
Nhờ có Geneve, Pháp đã tránh được thảm bại quân sự, rút được quân viễn chinh, và cứu vãn danh dự, mà theo Ngoại trưởng Anh Eden thì đó là lối thoát may mắn nhất cho phương Tây. Sau này Pháp sẽ mất hết ở Đông Dương, nhưng đó là hậu quả của quan hệ Pháp - Mỹ.
Liên Xô đã nhân cơ hội này để khẳng định vị thế quốc tế của mình và tuyên truyền cho hoà bình thế giới. Người Anh đã đạt được mục tiêu, còn Mỹ thì đồng ý ủng hộ Pháp nhưng không phải để tiến hành chiến tranh thuộc địa, tránh được một cuộc can thiệp quân sự mà vẫn giữ được miền Nam Việt Nam. Ngoài ra còn mở được cửa vào Lào và Campuchia.
Nhưng Trung Quốc là người hưởng được mối lợi lớn nhất: đạt được mục tiêu chiến lược trở thành cường quốc thứ năm quan trọng nhất ở châu Á, đẩy xa được người Mỹ, phá thế bị bao vây, lại cải thiện được quan hệ với Pháp, Ý, Đức và Hà Lan và nối được quan hệ láng giềng tốt với một Đông Dương đa dạng. Trong buổi chiêu đãi 4 phái đoàn Đông Dương ở Geneve, Chu Ân Lai đã nâng cốc chúc sức khoẻ Bảo Đại, vua Lào và vua Campuchia, và đề nghị với chính phủ Ngô Đình Diệm lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh.