60 năm cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc – Lý luận và thực tiễn
I. Khái niệm về thể chế kinh tế
Theo quan niệm của người Trung Quốc: "Thể chế kinh tế là hình thức tổ chức cụ thể và chế độ quản lý kinh tế của một chế độ kinh tế - xã hội hoặc một quan hệ sản xuất".
Chế độ kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ sản xuất chiếm địa vị thống trị trong xã hội, là tiêu chí căn bản của một hình thái xã hội có tính ổn định. Thể chế kinh tế là hình thức thực hiện chế độ kinh tế - xã hội có tính khả biến. Thể chế kinh tế vừa phản ánh yêu cầu bản chất của chế độ kinh tế, vừa phản ánh yêu cầu khách quan của phát triển sức sản xuất xã hội. Việc thay đổi thể chế kinh tế phù hợp với sức sản xuất có thể giải phóng sức sản xuất khiến cho kinh tế - xã hội phát triển. Do vậy, cải cách thể chế kinh tế là động lực phát triển sức sản xuất xã hội.
II. Quá trình cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc
Trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, quá trình cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc có thể chia ra làm 2 thời kỳ:
1. Thời kỳ xây dựng thể chế kinh tế kế hoạch (1945 - 1977).
Sau khi hoàn thành thắng lợi công cuộc cách mạng dân chủ mới (1-10-1949). Trung Quốc bước vào giai đoạn khôi phục nền kinh tế quốc dân. Mô hình quản lý kinh tế lúc đó là làm theo kiểu quản lý thống nhất tập trung cao độ mà Liên Xô đã áp dụng trước đó. Đặc trưng của mô hình này là nhà nước thống nhất quản lý; chỉ huy điều tiết mọi hoạt động kinh tế thuộc mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu thụ; đưa nền kinh tế vào quỹ đạo kế hoạch pháp lệnh của nhà nước.
Mô hình này đã khiến Trung Quốc trong một thời gian dài tiềm tàng một sự giáo điều cho rằng kinh tế kế hoạch tương đồng với CNXH, kinh tế thị trường tương đồng với CNTB, CNXH và kinh tế thị trường hoàn toàn đối lập nhau, không thể dung hòa với nhau, có kinh tế thị trường thì không thể có CNXH.
Với sự trói buộc của tư tưởng trên, các cuộc thảo luận về cải cách thể chế kinh tế trong thời kỳ này đã có những bước thăng trầm.
1.1 Giai đoạn 1949-1955: Duy trì quan điểm lý luận kinh tế CNXH truyền thống
Ở giai đoạn đầu khôi phục đất nước sau Chiến tranh, nền kinh tế kế hoạch đã có tác dụng nhanh chóng tập trung nhân lực, tài lực, vật lực để đảm bảo thực hiện các mục tiêu quan trọng quốc gia. Do vậy, trong giai đoạn này, chiếm vị trí chủ yếu trên diễn đàn kinh tế Trung Quốc là duy trì quan điểm lý luận kinh tế XHCN truyền thống, cho rằng sản xuất hàng hóa là "di vật" (vật để lại) của chế độ tư hữu, quy luật giá trị là lực lượng "dị kỷ" (khác với) XHCN, kinh tế thị trường là đối lập với kinh tế kế hoạch… Với quan điểm này, ở Trung Quốc, người ta đã duy trì chế độ công hữu đơn nhất, loại bỏ sản xuất hàng hóa và vai trò của quy luật giá trị…
1.2. Giai đoạn 1956-1965: Tìm tòi thể chế kinh tế mới
Sau một thời gian thực hiện, thể chế kinh tế kế hoạch bắt đầu bộc lộ những yếu kém. Do nhà nước tập trung quá nhiều quyền lực, quản lý xí nghiệp quá chặt, không phân biệt rõ chức năng chính quyền và xí nghiệp… nên làm mất đi sức sống của kinh tế XHCN, hiệu quả kinh tế rất thấp.
Các nhà kinh tế Trung Quốc đã đi sâu tìm hiểu và phát hiện ra sự ràng buộc của chủ nghĩa giáo điều trên đã cản trở nghiêm trọng tới sự phát triển của sức sản xuất. Những vấn đề lý luận theo quan điểm truyền thống mâu thuẫn với thực tiễn. Họ bắt đầu đi sâu tìm tòi thể chế mới. Họ tìm thấy trong kinh tế, sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa mang tính tất yếu, quy luật giá trị có vai trò điều tiết thị trường. Xuất phát từ đặc trưng của hàng hóa, họ đã chứng minh nguyên nhân căn bản của sự tồn tại hàng hóa trong XHCN. Về quy luật giá trị, các nhà kinh tế Trung Quốc đưa ra 3 quan điểm quan trọng nhằm thúc đẩy cải cách thể chế quản lý kinh tế bằng kế hoạch. Đó là: Quan điểm quy luật giá trị là cơ sở phát triển kinh tếcủa Tôn Dã Phương, nhấn mạnh phải đặt kế hoạch trên cơ sở quy luật giá trị (nhiều nhà kinh tế Trung Quốc đánh giá đây là sự mở đầu của lịch sử cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc); quan điểm quy luật giá trị tự điều tiếtcủa Ứng Thành Vượng chủ trương để cho quy luật giá trị tự điều tiết sản xuất; quan điểm thị trường tự điều tiếtcủa Cố Chuẩn chỉ ra sự lên xuống của giá cả trên thị trường chính là quá trình tự điều tiết sản xuất.
Ba quan điểm trên đưa ra trong những năm 1956 - 1965, bị coi là đi ngược với trào lưu tư tưởng lúc đó. Họ bị bài xích là lý lẽ của phái hữu, bị coi là phần tử của chủ nghĩa xét lại phản cách mạng và bị phê phán. Song, tư tưởng của họ đã mở đường cho các nhà nghiên cứu lý luận kinh tế. Giới lý luận kinh tế Trung Quốc từ đó đã nhiều lần đề cập tới vấn đề lợi dụng thị trường để làm kinh tế XHCN, nhưng các cuộc thảo luận chưa đột phá được sự trói buộc của nội hàm kinh tế XHCN. Phải tới những năm 90 của thế kỷ XX, ba quan điểm trên mới được lịch sử chứng minh là chính xác và " những hạt giống được gieo trồng tư những năm 50 cuối cùng đã trở thành những cây mạ khỏe mạnh trong những năm 90".
1.3 Giai đoạn 1965 - 1977: lý luận bị tụt hậu
Giai đoạn này, Trung Quốc nổ ra cuộc "Đại Cách mạng văn hóa". Trong cuộc cách mạng này, những quan điểm về quan hệ giữa kế hoạch và thị trường bị gọi là "cỏ độc", chống lại Đảng, chống CNXH, chống Chủ nghĩa Mác - Lênin và bị lên án không dứt. Đồng thời, một bộ phận lý luận kinh tế "tả" cũng phát triển. Lâm Bưu và "bè lũ bốn tên" đã đưa ra một số quan điểm sai trái về vấn đề giá trị hàng hóa. Quan điểm chủ yếu mà họ đưa ra là sản xuất hàng hóa, trao đổi tiền tệ là dấu vết của xã hội cũ, là tàn dư của chế độ bóc lọt; trao đổi hàng hóa, trao đổi tiền tệ là dấu vết của xã hội cũ, là tàn dư của chế độ bóc lột ; trao đổi hàng hóa là mảnh đất, là điều kiện ấp trứng của CNTB và giai cấp tư sản; quy luật giá trị là một sức mạnh dị kỷ… Theo họ, sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị sẽ tạo ra CNTB, chỉ có thể hạn chế bằng chuyên chính của giai cấp vô sản.
Do vậy, ngoài những bài viết, bài phát biểu nhằm tuyên truyền rộng và làm xấu thêm tình hình, họ còn lôi hết những người làm công tác nghiên cứu lý luận kinh tế ra hỏi tội và đóng lại toàn bộ những vấn đề lý luận kinh tế. Sự phá hoại của Lâm Bưu và "bè lũ bốn tên" đã gây ra hậu quả xấu nghiêm trọng, lý luận kinh tế của Trung Quốc vì thế bị tụt hậu.
Có thể nói, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch, các nhà lý luận kinh tế Trung Quốc đã nhận ra thể chế kinh tế kế hoạch đã ngăn cản sự phát triển của sức sản xuất và bắt đầu đề cập tới vấn đề lợi dụng thị trường để xây dựng một thể chế kinh tế mới. Do vậy, thể chế kinh tế thị trường XHCN mà Trung Quốc đang xây dựng hiện nay đã manh nha xuất hiện từ thời kỳ này.
2. Thời kỳ xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN (từ 1978 - đến nay)
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc (12-1978) quyết định chuyển sang trọng tâm công tác của toàn Đảng từ "lấy đấu tranh giai cấp là chính" sang "lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm" và tiến hành cải cách mở cửa. Điều này đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu lý luận Trung Quốc nỗ lực tìm tòi xây dựng thể chế kinh tế mới nhằm thúc đẩy sức sản xuất phát triển.
2.1 Giai đoạn 1978-1991:Khởi động đi theo hướng thị trường
Ở thời kỳ đầu của cải cách, đứng trước nền kinh tế suy sụp sau Cách mạng Văn hóa, nhiều nhà kinh tế học đề xuấ những luận điểm mới.
2.1.1. Quan điểm kết hợp kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là phụ.
Để chống lại quan điểm "hữu khuynh" đòi xóa bỏ quan hệ "hàng - tiền", các nhà kinh tế nêu ý kiến cần phát huy hơn nữa vai trò của quy luật giá trị. Nhưng, do nhận thức của mọi người lúc đó về kinh tế hàng hóa còn mơ hồ nên mãi tới Hội nghị công tác Trung ương tháng 4-1997, Phó thủ tướn Quốc vụ viện Trung Quốc lúc đó Lý Tiên Niệm mới đưa ra quan điểm "kết hợp giữa điều tiết kế hoạch và điều tiết thị trường, lấy kinh tế kế hoạch làm chính, đồng thời hết sức coi trọng vai trò bổ trợ của điều tiết thị trường". Với quan điểm này, các nhà kinh tế đã nhận thức được quy luật phát triển theo kế hoạch và quy luật giá trị cùng đóng vai trò điều tiết, cho nên cần thực hiện phương châm kết hợp giữa điều tiết kế hoạch và điều tiết thị trường.
Đồng thời với việc đưa ra vấn đề kết hợp điều tiết kế hoạch và điều tiết thị trường, vào khoảng tháng 1-2/1979, một số nhà kinh tế cũng nêu lên vấn đề kết hợp kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường. Nhà kinh tế Trần Vân đưa ra quan điểm "kết hợp kinh tế kế hoạch làm chủ thể, kinh tế thị trường là sự bổ sung quan trọng chứ không phải là sự bổ sung thứ yếu". Trong đề cương "Vấn đề kế hoạch và thị trường", ông đưa ra quan niệm kinh tế thị trường và điều tiết thị trường, nên sau đó người ta ít nhắc tới. Nhưng dù thế nào chăng nữa, khái niệm kinh tế thị trường cũng được nêu ra từ cuối những năm 70. Theo đánh giá của các chuyên gia Trung Quốc, đây là điểm chuyển tiếp thảo luận từ vấn đề vai trò của quy luật giá trị sang vấn đề kinh tế thị trường, là điểm chuyển tiếp từ thể chế kinh tế kế hoạch sang thể chế kinh tế thị trường".
Cùng thời gian này, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cũng bắt đầu có tư tưởng kinh tế thị trường. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị công tác Trung ương (12-1978), ông nói: "Phải giải quyết mẫu thuẫn giữa quyền tự chủ và kế hoạch nhà nước bằng quy luật giá trị, bằng quan hệ cung - cầu". Một năm sau, trong buổi tiếp chuyện với Phó Ban biên tập Công ty xuất bản Bách khoa toàn thư của Mỹ, ông Đặng nói rõ hơn: "Nói rằng kinh tế thị trường chỉ tồn tại ở xã hội TBCN là không đúng. Tại sao CNXH lại không? Không thể nói xây dựng kinh tế thị trường là CNTB được. Chúng tôi xây dựng kinh tế kế hoạch là chính, nhưng cũng kết hợp với kinh tế thị trường". Tư tưởng này của ông Đặng được nhiều người trong Đảng chấp nhận áp dụng nó.
Như vậy, ngay từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thấy được lực lượng thị trường, có thể kết hợp bổ sung nó trong khuôn khổ kế hoạch của nhà nước đối với việc bố trí nguồn lực kinh tế. Đây là sự tiến bộ rất lớn so với những quan niệm về thể chế kinh tế trước đó. Tuy mới chỉ là bước đầu, nhưng nó đã phá vỡ thể chế kinh tế kế hoạch.
2.1.2 Quan điểm kinh tế XHCN là kinh tế hàng hóa có kế hoạch
Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, ông Tiết Mộ Kiều chủ trương cải cách lưu thông toàn diện nhằm triệt để phát huy tác dụng của thị trường. Theo ông, quan điểm “ kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là phụ” là không đúng, cần phải thay bằng “ xây dựng kinh tế hàng hóa XHCN”. Thuyết kinh tế hàng hóa được nêu ra, nhận thức của các nhà lãnh đạo Trung Quốc có sự tiến triển. Trong văn kiện “ Ý kiến bước đầu về cải cách thể chế kinh tế” do Văn phòng cải cách thể chế Quốc vụ viện đưa ra tháng 9 – 1980 chỉ rõ: “ Nền kinh tế XHCN của nước ta giai đoạn hiện nay là nền kinh tế hàng hóa, trong đó chế độ công hữu tư liệu sản xuất chiếm ưu thế, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại”. Văn kiện quan trọng này đã đánh dấu sự phát triển trong nhận thức của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Tuy nhiên, lúc đó nó chưa thể quán triệt trở thành nhận thức chung cho tất cả mọi người, nhất là đối với những người chịu ảnh hưởng sâu sắc của kinh tế kế hoạch trong suốt 30 năm trước đó. Do đó, thuyết kinh tế hàng hóa XHCN nêu ra chưa được bao lâu đã bị phê phán. Việc phê phán đối với thuyết này kéo dài tới Hội nghị Trung ương 3 khóa XII Đảng Cộng sản Trung Quốc (10 – 1984).
Hội nghị Trung ương 3 khóa XII đã thông qua Nghị quyết của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc về cải cách thể chế kinh tế.Nghị quyết chỉ rõ: “ Nền kinh tế XHCN là nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch trên cơ sở chế độ công hữu. Phát triển đầy đủ kinh tế hàng hóa là giai đoạn không thể bỏ qua của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện tất yếu để thực hiện hiện đại hóa Trung Quốc” (5). Đây là một đột phá quan trọng về lý luận. Lần đầu tiên Trung Quốc khẳng định rõ ràng kinh tế XHCN là kinh tế hàng hóa. Nó đánh dấu sự nhảy vọt về nhận thức đối với kinh tế XHCN. Ông Đặng Tiểu Bình đã đánh giá rất cao văn kiện này. Ông gọi nó "là kinh tế chính trị học kết hợp nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn XHCN của Trung Quốc".
Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XII, Báo cáo Chính trị của Đại hội lần thứ XIII Đảng Cộng sản Trung Quốc (11-1987) đã không còn nhắc tới kinh tế kế hoạch nữa, mà nhấn mạnh "vai trò của kế hoạch và thị trường đều là cơ chế vận hành kinh tế mới bao phủ lên toàn xã hội". Cơ chế vận hành kinh tế mới cần phải là "nhà nước điều tiết thị trường, thị trường dẫn dắt xí nghiệp". Sau Đại hội XIII, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc kiến nghị áp dụng quan điểm kinh tế thị trường XHCN, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số người giữ ý kiến ngược lại. Đặc biệt sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, những người này nêu ra vấn đề kế hoạch và thị trường là XHCN hay TBCN? Họ đánh đồng kinh tế kế hoạch với CNXH, đánh đồng kinh tế thị trường với CNTB.
Như vậy, cho tới cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, mọi người đều nhận thức được vai trò của việc phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng cơ chế thị trường, nhưng vẫn hoài nghi về kinh tế thị trường, mặc dù Trung Quốc đã có sự đột phá tương đối lớn đối với quan niệm truyền thống.
2.1.3. Quan điểm kinh tế thị trường
Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở Trung Quốc đã xuất hiện một trận Đại luận chiến về vấn đề cải cách thất bại hay thành công? Việc phê phán trên quy mô lớn đối với lý luận kinh tế thị trường đã gây ra sự lo lắng, nghi ngờ, rối loạn trong cán bộ và quần chúng nhân dân. Thêm vào đó lại xảy ra sự biến động chính trị ngày 19-8-1991, rồi cuộc cải cách của Liên Xô và các nước Đông Âu không triệt để khiến cho cải cách ở Trung Quốc trong thời gian này bị chậm lại. Trong những văn kiện chính thức, vấn đề kinh tế thị trường vẫn chưa được đề cập tới. Người ta có thể tiếp thu kinh tế hàng hóa nhưng lại tránh không nới tới kinh tế thị trường. Họ vẫn luôn băn khoăn bởi vấn đề kinh tế thị trường mang tính chất XHCN hay TBCN?
Trước sự băn khoăn đó, ông Đặng Tiểu Bình đã có những cuộc nói chuyện với các nhà lãnh đạo tỏ rõ quan điểm của mình. Nhưng phải tới chuyến đi miền Nam Trung Quốc đầu năm 1992, ông Đặng trực tiếp gặp gỡ quần chúng, trình bày quan điểm của mình về kế hoạch và thị trường, nó mới thực sự có tác dụng. Ông nói dứt khoát rằng: "Kế hoạch nhiều hơn một chút hay thị trường nhiều hơn một chút không phải là sự khác biệt bản chất giữa CNXH và CNTB. Kinh tế kế hoạch không đồng nghĩa với CNXH, CNTB cũng có kế hoạch. Kinh tế thị trường không đồng nghĩa với CNTB, CNXH cũng có thị trường. Kế hoạch và thị trường đều là các biện pháp kinh tế".
Với quan điểm trên, ông Đặng đã trả lời câu hỏi mọi người tranh luận không ngừng trước đó nhưng không giải quyết nổi "Cải cách đi theo con đường nào, XHCN hay TBCN?". Đồng thời, ông cũng cung cấp những luận cứ khoa học để nhận thức đúng đắn hai biện pháp kinh tế là kế hoạch và thị trường. Tư tưởng của ông vì vậy có tác dụng chỉ đạo và thúc đẩy mạnh mẽ đối với việc đổi mới quan niệm. Các chuyên gia Trung Quốc đánh giá rằng, đây là cuộc "giải phóng tư tưởng lần thứ hai". Lần giải phóng tư tưởng này tập trung chủ trung chủ yếu vào việc hiểu đúng đắn thế nào là "họ xã" (CNXH), "họ tư" (TBCN), nó có ý nghĩa sâu sắc.
2.2 Giai đoạn 1992-2001: hình thành khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Dựa vào luận điểm trên của ông Đặng Tiểu Bình. Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIV (10-1992) chính thức tuyên bố: "Mục tiêu cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc là xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN" và chỉ rõ: "Thể chế kinh tế thị trường XHCN chính là làm cho thị trường phát huy được vai trò mang tính cơ sở trong việc bố trí các nguồn lực dưới sự điều tiết vĩ mô của nhà nước…". Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (11-1993) đã nêu ra nội dung của việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường: "Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển; chuyển đổi thêm một bước cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại; xây dựng hệ thống thị trường mở cửa thống nhất trong cả nước; chuyển đổi chức năng quản lý kinh tế của Chính phủ, xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô hoàn thiện; xây dựng chế độ phân phối thu nhập lấy phân phối theo lao động là chính, ưu tiên hiệu suất, chú trọng công bằng; xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội nhiều tầng. Những khâu chủ yếu này là một thể hữu cơ gắn với nhau, tạo nên khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường XHCN".
Với nội dung trên, Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (9-1997) đã đặt ra mục tiêu tới năm 2010 xây dựng thể chế kinh tế thị trường tương đối hoàn thiện. Để thực hiện mục tiêu này, Đại hội đã đã đặt trọng tâm vào việc cởi bỏ sự trói buộc của lý luận kinh tế truyền thống đối với sức sản xuất do kết cấu chế độ sở hữu đơn nhất đem lại, xác định nền kinh tế trong đó: "chế độ công hữu làm chủ thể kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản của nước ta trong giai đoạn đầu của CNXH".
Luận điểm trên của Đại hội XV về chế độ sở hữu đã giải tỏa những khúc mắc về nhiều quan điểm lý luận trong một thời gian dài gây trở ngại cho quá trình cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc.Trước đây, người ta quan niệm quan niệm quá trình xây dựng CNXH là quá trình hạn chế đi tới thủ tiêu các thành phần kinh tế phi công hữu. Nghị quyết Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992) còn cho rằng "kinh tế phi công hữu" chỉ đóng vai trò "bổ sung". Đại hội XV lần đầu tiên khẳng định "chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản" ở Trung Quốc. Đại hội còn đưa ra: "Kinh tế phi công hữu là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị trường XHCN". Đây là một quan điểm mới trong lý luận về đặc trưng cơ bản của CNXH. Nó được coi là bước đột phá mới về lý luận, lần giải phóng mới về tư tưởng trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Có thể nói, nội dung xây dựng thể chế kinh tế thị trường mà Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV đề cập tới đã áp dụng phương thức kết hợp giữa tiệm tiến và đột phá trọng điểm khiến cho công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc đạt được những tiến triển quan trọng. Nó xóa bỏ những trở ngại ở khâu quan trọng để phát triển sức sản xuất như thực hiện đa dạng hóa hình thức thực hiện kinh tế công hữu; xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại; cho phép các yếu tố sản xuất tham gia vào phân phối, hình thành nên những trụ cột quan trọng của thể chế kinh tế thị trường XHCN.
2 .3 Giai đoạn từ 2002- đến nay: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN .
Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (11-2002), dựa trên khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường đã được hình thành từ 1992 và mục tiêu phát triển đến năm 2020 đề ra: "Trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI, Trung Quốc tập trung toàn lực xây dựng xã hội khá giả toàn diện với trình độ cao hơn, đem lại lợi ích cho số dân tỷ mấy người, làm cho kinh tế phát triển hơn, dân chủ kiện toàn hơn, khoa học giáo dục tiến bộ hơn, văn hóa phồn vinh hơn, xã hội hòa hợp hơn, cuộc sống nhân dân sung túc hơn. Đó là một giai đoạn phát triển tiếp nối tất phải trải qua để tiến tới mục tiêu chiến lược bước ba của công cuộc xây dựng hiện đại hóa, cũng là giai đoạn then chốt để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN và tăng cường mở cửa đối ngoại".