Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 22/02/2010 15:45 (GMT+7)

Phải chăng bản đồ Alexandre de Rhodes 1650 vẽ theo bản đồ Hồng Đức 1490

Phương hướng đặt bản đồ

Bđ ĐL bắt chức bđ HĐ đặc phương Tây lên trên, phương Đông bên dưới, phương Bắc bên phải và phương Nam bên trái. Tôi chưa từng thấy một bản đồ nào do Âu hay Á vẽ nước ta xưa kia lại có định hướng như vậy. Tất cả đều để phương Bắc lên trên.

Hai bản đồ đều dùng quốc hiệu An Nam

Trong lời giải thích “An An đồ thuyết” kèm theo bđ HĐ nói rõ An Nam chi địa.Trên góc tây bắc bđ ĐL có ghi trong khung chữ Regnũ Annam(vương quốc An Nam). Cho tới thời điểm 1650, tất cả các bản đồ Tây phương vẽ nước ta đều ghi quốc hiệu là Cochi, Gauchi, Cauchychina… Cochinchina… tức Giao Chỉ rồi Giao Chỉ Chi Na hay đúng hơn là Giao chỉ gần Tần(tôi đã bàn về địa danh này ở một bài khác).

Những đường nét và bố cục chính

Hầu như giống nhau, chỉ khác là bđ HĐ vẽ bằng bút lông chú thích chữ Hán, bđ ĐL vẽ bằng bút sắt chú thích chữ Quốc ngữ cổ. Phía trên bản đồ là núi non, ở giữa là bình nguyên, phía dưới là biển cả. Bđ HĐ ghi Tây giáp Ai Lao giưóithì bđ ĐL ghi Laorums pars,bên phải một trường thành bđ HĐ ghi Vân Nam thì bản đồ ĐL ghi Cinae pars. Bđ HĐ ghi Bắc giáp Quế Quản, Quảng Tây (bách Việt địa), Quảng Đông (Việt địa Triệu Vũ đế đô), thì bđ ĐL chỉ ghi Provincia Canton, Macao và Sepul S. Xaverij(mộ thánh Savie). Bđ HĐ ghi Tây giáp Lung Lang giớithì bđ ĐL ghi Cambogiae pars(có lẽ Lung Lang phiên âm tên Panduranga, một xứ của Chăm Pa ). Bđ HĐ ghi Chiêm Thànhthì bđ ĐL ghi Ciampa.Bđ HĐ ghi Thạch Bithì bđ ĐL ghi Ponta da Varallavà thêm dinh Phó An(Phú Yên).

Hai bản đồ thể hiện đứng nền hành chính của hai thời kỳ khác nhau

Dưới thời Lê Thánh Tông, cả nước chia ra 13 thừa tuyên và Trung Đô (Thăng Long). Bđ HĐ ghi đầy đủ (có đóng khung): Trung Đô, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, An Quảng, Hưng Hoá, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam, Hải Dương, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Quảng Nam.

Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng vào Nam vai trị biệt lập 2 thừa tuyên Thuận Hoá - Quảng Nam thành Đàng Trong đối đầu với Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Bđ ĐL ghi rõ ranh giới từ Cua Say(Cửa Thầy) đến giữa xứ Bố Chínhđể phân biệt hai bên. Ở Đàng Ngoài, bđ ĐL chỉ ghi rõ địa phận 2 thừa tuyên Nghệ An và Thanh Hoa.Còn các xứ khác thì không rõ ràng: trên địa điểm Trung bộ, bđ ĐL ghi Kecio(Kẻ Chợ) và các thừa tuyên chung quanh là Ke Dom (Kẻ Đông), Kẻ tay (Kẻ Tây),Ke Nam(Kẻ Nam ), Ke Bac (Kẻ Bắc).

Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn bãi bỏ đơn vị hành chính thừa tuyên, mà chia ra nhiều dinh. Bđ ĐL ghi: Dinh cũu (Cựu)ở Ái Tứ - Quảng Trị, Dinh ca (Cả)Thoan Hoa (Thuận Hoá), Dinh ciam (Chiêm) ở xứ Ciam (Quảng Nam), Dinh pho an (Phú Yên)của xứ Ran Ran(Đà Rằn) và Quinhin(Qui Nhơn), Quanghia(Quảng Nghĩa). Tất nhiên, bđ ĐH không có những địa danh vừa kể.

Bđ HĐ còn ghi những địa danh mà bđ ĐL không ghi lại như: Tây Kinh, Na Sơn, Hy Mã Sơn, An Hoạch Sơn, Hồ Lĩnh Sơn, Tượng Sơn, Phổ Minh Tự, Thiên Cầm Sơn, Thập Châu, Ngải Sơn, Bạch Thành, Tản Viên Sơn, Ngưu Dương Động, Phật Tích Sơn, Câu Lậu Sơn, Hùng Vương Sơn, Lũng Sơn, Tây Hồ, Lý Ông Trọng Miếu, Lịch Sơn, Phụng Dực Sơn, Bồng Sơn, Nam Xương Châu, Thiên Đức Giang, Kim Ngưu Sơn, Tiên Du Sơn, Lục Đầu Giang, Phả Lại Tự, An Tử Sơn, An Thù Sơn, Quỳnh Lâm Tự, Mẫu Sơn, Côn Sơn, Ải Quan, An Kỳ Sinh đắc đạo xứ, Hồng Đàm, Vân Đồn Sơn, Đại Viên Sơn, Nam Cương, Đồng Trụ giới, Bắc Cương, Phân Mao Lãnh. Cộng là 38 địa danh mà đa số là tên núi non, chùa chiền và danh lam thắng cảnh. Bđ HĐ ghi trên biển Đông là Đại Hảicó đảo Khai Lanthì bđ ĐL ghi là Pulo Sisi (?) ngay trên địa điểm Hoàng Sa ở ngoài khơi cù lao Ré.

Tuy nhiên, bđ ĐL có ghi những địa danh mà bđ HĐ không ghi (kể từ trên xuống dưới và từ nam ra bắc): Solitudo (hoang địa), Rumoi(xứ mọi hay Rú mọi), Ran Ran(phủ Phú Yên có sông Đà Rằn), Nuoc Ngot(Nước Ngọt), nuoc man(nước Mặn) Ben da(Bến Đá), Pullucambi(Cù Lao Xanh) , Cuadai(Cửa Đại), Pulocatãcolaura(Cù Lao Ré), Bá Linh, Ciam(xứ Quảng Nam), Dinh Ciam(Dinh Chiêm), Hai fo(Hoài Phố, Hội An nay), Pulociampello(Cù Lao Đại Chiêm), Cuahan(Cử Hàn, Đà Nẵng nay), Dinh Ca(Dinh Cả), Hoa(Huế), Cua Say(Cửa Thầy), Dinh cũu(Dinh Cựu), Ke dai (?), Ke Hoa(Huế), Cua Sot(Cửa Rùm), ha huinh (?), Rum(thị trấn Rùm), Cua Ciua(Cửa Chúa), Ke len(Kẻ (đò) Lèn), Ke cu (?), Vang nai(Hoàng Mai), Cua bang(cửa Bang), van no(Văn Nho), An nuc(An Vực), Dien pho(Diễn Phố), Cua bic(Cửa Bích), Cua dai(Cửa Đáy), Ke bo(Kẻ Vó), Non khe(kẻ Non), Ke voy (Kẻ Vồi), Ha hoy(Hà Hồi), Kemaoc(Kẻ Mác, Ô Đống mác), Ke tru(Kẻ Trừ), Ke cou(?), Ke Coc(Kẻ Cốc), Cham ha(Chầm Hạ), Dangon(?), Longuam (?), Kemua(Kẻ mụa), Dai tiền (?), Chin tan (?), Caubang(Cao Bằng), Trang tay (?), Thich (?), Phoi Ke (?), Den ho (?), Tam dang (?), Ke ga (?), Ke fau(kẻ Sau), Ke fuoc(Kẻ Trước)… Công là 58 địa danh gồm toàn tên Nôm các thị trấn, làng mạc, địa điểm có liên quan đến sứ vụ truyền giáo.

Nói chung, 2 bản đồ này giống nhau về cơ bản địa lý tự nhiên và địa lý chính trị (quốc hiệu). Tuy nhiên bđ HĐ thể hiện địa lý lịch sử nước Đại Việt thời Lê Thánh Tông với cách phân ranh hành chính theo từng thừa tuyên (sau đổi ra xứ rồi trấn) cùng tên sông núi và danh lam thắng cảnh đương thời. Còn bđ ĐL thì thể hiện tình hình đất nước đã chia ra Đàng Trong và Đàng Ngoài. Bđ ĐL ghi tên các thừa tuyên Đàng Ngoài theo tục danh (ngoại trừ Thanh Hoá và Nghệ An) lại cũng không ghi khá đầy đủ các dinhở Đàng Trong tuy vẫn theo tục danh. Bđ ĐL thiên về tiếng Nôm và tục danh, không như bđ HĐ chỉ dùng chữ Hán.

Trước bđ ĐL 1650, Tây phương chỉ biết nước ta ở ngoài bờ biển và các hải đảo. Họ vẽ bờ biển Đàng Trong đúng hơn ở Đàng Ngoài vì ít lui tới Đàng Ngoài. Do đó, bđ ĐL cũng theo họ mà vẽ sai vịnh Bắc Việt, nhưng đã thêm được khá nhiều địa danh bên trong từ bờ biển lên tới cao nguyên. Ngoài ra, bđ ĐL đã ghi khá chính xác là ranh giới “Cua Say” chia nước ta thành 2 phần Tun Kinhtức Đàng Ngoài vài Cocincinatức Đàng Trong thật rõ ràng.

Bđ ĐL đặc biệt chú ý đến biển Đông nên đã ghi rõ Cù lao Ré(nay ta gọi là đảo Lý Sơn) và ngoài khơi khoảng hải phận Hoàng Sa ghi thêm Pulo Sisi(?) hầu như chú giải hải đảo Khai Lancủa bđ HĐ. Đến đây có nghi vấn tại sao Đắc Lộ không ghi là đảo Pracel hay Paracel? Nếu quan sát kỹ 2 bản đồ đang bàn ta sẽ thấy ngay từ thời Lý Trần hoặc ít ra từ thời Lê, dân ta đã khai thác và làm chủ biển Đông rồi, nếu đàu thời chúa Nguyễn (1600 – 1630) thiết lập đội Hoàng Sa và đội Bắc Hảilà hành động theo truyền thống từ xưa và để tái khẳng định chủ quyền trên biển Đông mà thôi.

Bản đồ Alexandre De Rhodes 1650 là bản đồ duy nhất của Tây phương đã căn cứ vào bản đồ Hồng Đức 1490 giúp cho độc giả hiểu biết tương đối đúng đắn đất nước ta ở 4 thế kỷ XV, XVI, XVII, XVIII vậy.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.