Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất:Vì sao lại đưa vấn đề trí thức Việt Nam thành một nội dung nghiên cứu, thảo luận và xây dựng nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương trong tình hình hiện nay?
1- Như chúng ta đều biết, trong lịch sử lâu dài dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, cha ông ta đã đúc kết và để lại nhiều bài học sâu sắc và quý giá. Cùng với việc khẳng định bài học lớn lao nhất “ dân vi bản” (dân là gốc), cha ông ta đồng thời xác định và nhấn mạnh về vai trò to lớncủa những người hiền tàicủa đất nước. Ngay từ thế kỷ XV, thời Lê, cha ông ta đã đúc kết cực kỳ sâu sắc một kinh nghiệm lịch sử, một chân lý “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”. Vì vậy, các đấng thánh đế, minh vương thường lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Rõ ràng là, dân và những người hiền tài của dân, của nướcđã tạo nên sức mạnh quyết địnhsự hưng thịnh của dân tộc ta, Tổ quốc ta.
Cảm nhận sâu sắc ý nghĩa của bài học trên, trong toàn bộ cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm tập hợp, đào tạo, tìm kiếm, thu hút và trọng dụng nhân tài. Hơn một năm sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 20-11-1946, Người đã đăng tin “Tìm người tài đức” cho đất nước với những lời lẽ hết mực chân thành và khẩn thiết : “ Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết” (1).
Những di sản tư tưởng quý báu trên phải được chúng ta nối tiếp, phát huy và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới.
2- Đảng Cộng sản Việt Nam , trong chủ trương, đường lối của mình đã có sự quan tâm đến vấn đề trí thức, từng bước có sự đổi mới tư duy đối với trí thức. " Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1991) đặt vấn đề "xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo" (2).
Phát triển quan điểm cơ bản trên, trong văn kiện các Đại hội VIII, IX và X, Đảng ta tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn với những nội dung mới và hàm súc : “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguồn gốc sức mạnh, động lực chủ yếu và nhân tố có ý nghĩa quyết địnhbảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Văn kiện Đại hội X).
Tuy vậy, cho đến nay, Đảng ta chưa có một nghị quyết chuyên đề nào về đội ngũ trí thức Việt Nam . Có thể coi đó là một sự chậm trễ. Với tinh thần phê phán nghiêm túc và thật sự cầu thị, phải thừa nhận rằng : tư duy, quan điểm đối với trí thức chưa chuyển biến thật sự kịp thời so với sự vận động của thực tiễn; chính sách đối với trí thức còn nhiều bất cập; việc phát huy đội ngũ trí thức vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ, cũng như chưa ngang tầm với vai trò, vị trí của trí thức…
Những hạn chế, yếu kém này lại diễn ra đúng vào thời điểm mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với nền kinh tế tri thức đang làm thay đổi toàn diện, mạnh mẽ và sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là nền sản xuất, tiếp đến là cơ cấu xã hội, văn hoá, tinh thần, chính trị…
Hiện nay đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển mạnh kinh tế tri thức, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Công cuộc đổi mới đất nước đang tăng tốc độ, diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Cần khẳng định rằng, thực hiện được các mục tiêu mới mẻ và lớn lao đó, trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức làm nền tảng, vai trò của đội ngũ trí thức trở nên ngày càng quan trọng và giữ vị trí quyết định. Trong khi đó, đội ngũ trí thức của chúng ta dù đã có nhiều đóng góp qua các thời kỳ của cách mạng và qua các thế hệ nối tiếp nhau, song, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, cả về số lượng, cơ cấu và cả về chất lượng, đội ngũ trí thức còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đủ sức đáp ứng được những yêu cầu cao của thời kỳ mới.
Vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có nghị quyết về “ Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; tại Hội nghị Trung ương 7 sắp tới, Trung ương sẽ bàn và ra Nghị quyết “ Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Cũng tại Hội nghị này, theo dự kiến Trung ương sẽ bàn về “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”. Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệtcủa vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức, sau khi xem xét đề nghị của Tiểu ban chuẩn bị Đề án, Bộ Chính trị đã đề nghị Trung ương cho đổi chủ đề là “ Xây dựng đội ngũ trí thức”, tức là bàn trực tiếp về đội ngũ trí thức, như đã bàn về giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, bởi vì Bộ Chính trị cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề trí thức phải được đặt ra và giải quyết một cách có hiệu quả với tầm tư duy mới, đáp ứng những yêu cầu mới. Đảng phải thể hiện tầm trí tuệ lãnh đạo đối với trí thức. Đảng và Nhà nước phải có sự quan tâm đầy đủ hơn đối với trí thức. Để làm tốt điều này, chúng ta phải đánh giá đúng đội ngũ trí thức; phải có đường lối, chủ trương về xây dựng, về sử dụng và trọng dụng đội ngũ trí thức, nhằm thu hút, tập hợp, đoàn kết, phát huy toàn diện năng lực, tài năng của trí thức, nhất là đối với hiền tài, nhân tài của đất nước.
Những lý do nêu trên cho thấy, việc Trung ương ra nghị quyết lần này về trí thức vừa cần thiết, cấp bách, kịp thời vừa mang ý nghĩa chiến lượcđối với giai đoạn mới của cách mạng nước ta.
Thứ hai:Với chức năng là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về các vấn đề lý luận chính trị, làm cơ sở cho việc hoạch định, hoàn thiện, phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đối với vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức, chúng ta cần tư vấn những gì?
1- Tư vấn để làm rõ các khái niệm, tiêu chí và vai trò của người trí thức:
- Làm rõ khái niệm về trí thức: Từ trước tới nay, các nhà khoa học đã đưa ra khá nhiều khái niệm về trí thức. V.I.Lênin định nghĩa về trí thức: "Trí thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc"(3). Cuốn "Từ điển triết học" do một tập thể các nhà khoa học Liên Xô biên soạn, Viện sĩ M.M. Rôdentan chủ biên (4), định nghĩa trí thức là tập đoàn xã hội gồm những người làm nghề lao động trí óc. Cuốn sách này cũng đưa ra những thành phần của giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo, người làm công tác khoa học, một bộ phận lớn công chức, viên chức. Tại Việt Nam, trong các từ điển đã cố gắng đi tìm định nghĩa về trí thức phù hợp với tình hình chung và chú ý tính đặc thù Việt Nam . Cùng với việc xác định trình độ học vấn như là một tiêu chí, có đồng chí nêu thiên chức của trí thức là tiếp thu và truyền bá tri thức và văn hóa; sáng tạo ra các giá trị mới của tri thức và văn hóa; đề xuất và phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; dự báo định hướng dư luận xã hội.
Vấn đề tên gọi "tầng lớp trí thức" hay "đội ngũ trí thức" cũng đang còn có những ý kiến khác nhau. Gần đây, một số nhà khoa học đề xuất: phải tiếp cận khái niệm trí thức với tư duy mới, xem đó là nguồn nhân lực chất lượng cao, là bộ phận tinh hoa trong các giai cấp, tầng lớp, có mặt ở mọi lĩnh vực, mọi địa bàn; không nên coi trí thức là một lực lượng xã hội riêng biệt, mà xem đó là lực lượng tiêu biểu về tri thức, trí tuệ trong công nhân, nông dân, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang,…
Như vậy, để giúp cho nghị quyết bàn trúng đối tượng, chúng ta cần trao đổi, làm rõ nội hàm, tiêu chí về đội ngũ trí thức. Tất nhiên, về mặt khoa học sẽ còn nhiều ý kiến khác nhau và tiếp tục tranh luận. Song, đối với một nghị quyết của Đảng, chúng ta cần đề xuất những nội dung cơ bản nhất có thể chấp nhận để làm cơ sở cho việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức thời gian tới.
- Về vai trò của người trí thức: Trí thức đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lao động trí óc của trí thức góp phần to lớn vào việc giải phóng lao động chân tay, cùng với lao động chân tay trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội.
Qua hơn 20 năm đổi mới, trí thức Việt Nam đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, quản lý xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại.
Trong thời kỳ mới, vai trò của người trí thức Việt Nam càng to lớn hơn. Vậy, không thể nói chung chung mà cần xác định chính xác, khoa học vai trò đó, thì mới xác định được quan hệ hiện thựcgiữa trí thức với yêu cầu của sự phát triển chung, với các giai cấp, tầng lớp khác của xã hội. Nhiều người nhấn mạnh, phải xem trí thức là động lực, là đầu tầu, là lực lượng tiên phong trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Khi Đảng khẳng định phải "phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước"(5), có ý nghĩa là trí thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, và từ đó họ đóng vai trò quyết địnhđối với một số lĩnh vực cụ thể trong sự phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, giáo dục… của đất nước ? Chúng ta cần trao đổi kỹ về các vấn đề này.
2-Tư vấn trong việc đánh giá đúng thực trạng của tình hình trí thức Việt Nam hiện nay
Muốn đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, trước hết, phải xác định rõ cách tiếp cận để đánh giá, phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, khách quan, toàn diện; tránh lối đánh giá phiến diện, chủ quan, cảm tính, quy chụp.
Trên cơ sở hiểu biết thực tiễn và khảo sát thực tế, phải nói rõ sự thật, nhìn thẳng vào sự thật mới có thể đánh giá đúng được thực trạng của tình hình trí thức Việt Nam hiện nay, phát hiện những vấn đề đặt ra đối với trí thức nước ta, từ đó đề xuất cơ chế, chính sách phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng trí thức, nhân tài, hiền tài của đất nước.
Có một sự thật là, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tầng lớp trí thức Việt Nam vẫn luôn luôn kề vai, sát cánh với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và toàn dân tộc, chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ nghĩa yêu nước là một phẩm chất sâu sắc của người trí thức Việt Nam, họ luôn có khát vọng vươn tới mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, con người được ấm no, tự do, hạnh phúc. Bên cạnh những đặc trưng đó, chúng ta cần suy nghĩ, trao đổi kỹ về các đặc điểm, mặt mạnh và cả hạn chế, bất cậpcủa đội ngũ trí thức Việt Nam so với yêu cầu của thời kỳ mới và của bản thân đội ngũ này. Ngoài ra, cần tìm hiểu cả tâm tư của trí thức, có chăng, xuất phát ở sự quan tâm chưa đầy đủ và sự sử dụng chưa thấu đáo của Đảng và Nhà nước đối với họ?
3- Tư vấn để góp phần đổi mới tư duy trong việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí thức
Muốn xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam ngày càng phát triển, có thể đóng góp nhiều hơn nữa tài năng, trí tuệ vào công cuộc chấn hưng đất nước trong thời kỳ mới, trước hết, phải xây dựng một đường lối, chính sách đúng, một cơ chế hợp lý, nhất là cơ chế dân chủ, phát huy tự do sáng tạo đối với trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta rằng, mọi cái đều từ trong chính sách của chúng ta mà ra. Vì vậy, chúng ta phải xây dựng một hệ thống chính sách mới đối với đội ngũ trí thức, như chính sách trọng dụng thực sự nhân tài; chính sách tạo điều kiện và giao việc làm cho trí thức; chính sách cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, tạo môi trường và phương tiện làm việc cho trí thức; chính sách bảo đảm dân chủ, tự do tư tưởng, phát huy tính sáng tạo của trí thức; chính sách sử dụng trí thức đã về hưu, nhưng còn sức khỏe và trí tuệ cống hiến; chính sách sử dụng trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài và trí thức là người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam,… Toàn bộ các chính sách phải thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng và lòng tin tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với trí thức, tạo động lực cho sự phát triển của trí thức nước nhà. Không có lòng tin mọi việc bất thành, có lòng tin mọi việc sẽ thành. Phải làm sao để trí thức có một lòng tin sâu sắc, tự nguyện vào Đảng, Nhà nước và nhân dân trong công cuộc đổi mới và chấn hưng đất nước.
4- Tư vấn trong việc góp phần xây dựng những giải pháp khả thi để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trước những đòi hỏi mới của thời kỳ mới, vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với nước ta là khẩn trương đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn vốn quan trọng bậc nhất của nguồn vốn xã hội để kiến thiết đất nước và chấn hưng dân tộc. Trí thức là bộ phận tinh hoa của nguồn nhân lực đó. Do đó, chúng ta phải có những giải pháp khả thi, đủ tầm và đồng bộ để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam ngày càng phát triển về lượng và nâng cao về chất. Những giải pháp đó phải gắn với việc phát triển kinh tế tri thức; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ, phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật…
Văn kiện Đại hội X của Đảng đặt vấn đề " tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức" (6).. Ở đây có mối quan hệ biện chứng. Xây dựng đội ngũ trí thức để chủ động chuẩn bị và thực thi, phát triển kinh tế tri thức, đồng thời phát triển và vận dụng kinh tế tri thức vào trong đời sống xã hội, đặc biệt, trong phát triển kinh tế và quản lý xã hội sẽ là giải pháp thực sự có hiệu quả để tạo điều kiện cho sự lớn mạnh đội ngũ trí thức.
Vấn đề giáo dục và đào tạo liên quan trực tiếp đến vấn đề trí thức trong tình hình hiện nay cũng đang đặt ra một cách gay gắt, đòi hỏi chúng ta cần tập trung giải quyết. Phải tạo ra một lực lượng trí thức mạnh trong ngành giáo dục và đào tạo để xây dựng và thực hiện thành công mô hình xã hội học tập, phát triển hệ thống học tập cho mọi người, mọi nhà và thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ, trước hết, cần phải có một lực lượng trí thức đủ tầm, hướng vào giải quyết các vấn đề khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ. Mặt khác, trí thức phải được đặt trong môi trường khoa học để được thử thách và phát triển. Tách trí thức khỏi môi trường sản xuất, kinh doanh, khoa học sẽ không thể đào tạo được những trí thức có năng lực sáng tạo thực tiễn. Đề nghị các đồng chí trao đổi, cùng nhau đề xuất các giải pháp vừa mới, vừa có tính khả thi để đào tạo, xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức.
Trong các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam , giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao trách nhiệm và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với trí thức. Đây là một giải pháp có ý nghĩa quyết định, có giá trị định hướng cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ mới.
Giải pháp về xây dựng môi trường thuận lợi trong các lĩnh vực lý luận chính trị; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; y tế; văn hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí,…, tạo điều kiện để trí thức có thể cống hiến và sáng tạo nhiều hơn nữa cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng là một đòi hỏi chính đáng và gay gắt của đội ngũ trí thức.
Ngoài những vấn đề trên, còn những vấn đề gì khác xoay quanh chủ đề trí thức, xin mời các đồng chí phát biểu và tranh luận với tinh thần dân chủ, cởi mở, hiểu biết, tôn trọng nhau để có những đóng góp thiết thực vào việc chuẩn bị cho nghị quyết sắp tới của Trung ương về vấn đề có tầm quan trọng chiến lược này.
-----
* Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập,tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 451.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam : Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr 9.
3. V.I.Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1987, tập 8, tr. 372.
4. Nhà xuất bản Tiến Bộ, Mátxcơva, 1986.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 119.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 25.








