Việt Nam có thực sự hiếm nhân tài?
Nhà báo Hàm Châu, Hội đồng biên tập tạp chí “Cửa sổ văn hoá” Việt Nam
Sinh thời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng chỉ rõ: “Chúng ta tiến hàng giáo dục phổ cập cho toàn dân từ cấp I đến cấp II rồi đến cấp III, điều đó biểu hiện chính sách tốt đẹp của chế độ ta. Nhưng đồng thời phải phát hiện và bồi dưỡng người tài giỏi, nhất là giỏi khoa học tự nhiên”.
Bây giờ xin nói về lĩnh vực tôi quen thuộc: làm thế nào để phát hiện và tuyển chọn những mầm non năng khiếu về khoa học tự nhiên, đặt biệt là toán học – cơ sở của mọi ngành khoa học và công nghệ - để bồi dưỡng và đào tạo thành người tài? Tôi chỉ bàn về người tài (hay còn gọi là nhân tài) thôi, chứ chẳng dám viển vông bàn về… thiên tài! Bởi lẽ thiên tài là thứ “trời cho”; không một trường, một viện nào dù là Harvard ở Mỹ, Oxford ở Anh hay Lomonosov ở Nga… dám vỗ ngực nói rằng mình đào tạo được!
Theo quan sát của tôi, năng khiếu toán học thường bộc lộ từ rất sớm. Khi nghiên cứu cuộc đời của 91 nhà toán học lỗi lạc trên thế giới, các nhà tâm lý học nhận thấy: Tài năng của họ hầu hết “phát tiết ra ngoài” ở độ tuổi 10 - 15, nếu không kịp thời phát hiện và bồi dưỡng, thì rất bị mãi mãi thui chột.
Năm 1965, trường Đại học Tổng hợp đi dầu mở ở lớp phổ thông chuyên Toán. Các TS Phan Đức Chính, Hoàng Hữu Đường, Lê Đình Thịnh.. nhận lời trực tiếp giảng dạy. Có thầy giỏi thì mới mong có trò giỏi. Nhiều học sinh chuyên Toán dạo đó, về sau, trở thành những nhà khoa học có tiếng như GS. TSKH Đào Trọng Thi, Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội; GS. TS KH Trần Văn Nhung, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT; GS. TSKH Nguyễn Văn Mậu, Hiệu trưởng trường Đại học KHTN…
Tiếp sau trường Tổng hợp, một số trường khác ở nước ta cũng mở các lớp chuyên, không chỉ riêng về môn Toán, mà cả về các môn Văn, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Tin học, Ngoại ngữ… 30 năm qua, nước ta gần như liên tục dự các cuộc thi Olympic Toán học Quốc tế (IMO), giành hàng trăm huy chương vàng - bạc - đồng, thường được xếp hạng đồng đội (không chính thức) từ thứ 8 – 12, có năm xếp thứ 4 trong khoảng 100 nước, chỉ sau Trung Quốc, Mỹ và Nga. Học sinh ta dự các cuộc thi Olympic quốc tế về Vật lý, Tin học, Hoá học, Sinh học… cũng đạt kết quả cao. Nhiều người sau đó đã trúng tuyển vào các trường Đại học danh tiếng nhất ở Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Đức…
Theo tôi được biết thì, hàng nghìn học sinh chuyên Toán về sau đã trở thành TS, hàng năm trở thành TSKH, PGS, GS. Nếu ghé thăm các cơ quan khoa học trong nước, thì nơi đâu ta cũng “đụng đầu” với các … cựu học sinh chuyên Toán! Nếu có dịp ra nước ngoài, ta sẽ gặp khá đông các nhà toán học, vật lý… có tên tuổi ở Mỹ, Pháp, Đức, Ba Lan… vốn cũng là học sinh chuyên toán như các anh Đàm Thanh Sơn, Phạm Hữu Tiệp, Vũ Kim Tuấn, Lê Tự Quốc Thắng (Mỹ) Ngô Bảo Châu, Nguyễn Tiến Dũng, Phan Dương Hiệu, Ngô Đắc Tuấn (Pháp); Nguyễn Hồng Thái (Ba Lan); Phạm Lê Kiên (Đức)… Mới đây, GS Ngô Bảo Châu cùng GS Gérard Laumon ở Paris đã đoạt giải thưởng nghiên cứu của Viện Toán học Clay (Mỹ) về một công trình được coi là xuất sắc nhất trong số hàng chục nghìn công trình toán học công bố trên toàn thế giới năm 2004. Thành tựu của Ngô Bảo Châu chứng tỏ, nếu được phát hiện và bồi dưỡng kịp thời, tuổi trẻ nước ta rất có thể sẽ vươn tới những đỉnh cao khoa học và công nghệ. (Trước đó Ngô Bảo Châu đã từng 2 lần đạt huy chương vàng ở Australia và CHLB Đức).
Dù sao ở nước ta cũng chưa xuất hiện những nhà bác học đoạt giải thưởng Nobel (về vật lý, hoá học, sinh học…) hay Huy chương Fields (về toán học); tuy nhiên, ngay ở Trung Quốc - với 1,4 tỷ dân cũng chưa có người nào đoạt tới đỉnh cao như thế, mặc dù đã có 6 người mang dòng máu Trung Hoa đoạt giải thưởng Nobel và một người giành Huy chương Fields, nhưng tất cả 7 nhà bác học ấy đều làm việc tại Mỹ! theo chúng tôi nghĩ, đối với Việt Nam ta, vấn đề hiện nay là: Sử dụng và đãi ngộ người tài ra sao?
GS. TSKH Lê Tuấn Hoa - Viện Toán học
Theo quan sát các bước phát triển xã hội, tôi nhận thấy nhân tài Việt Nam ngày càng nở rộ, ở nhiều lĩnh vực. Riêng ngành Toán học, theo tôi được biết, có đến trên 20 giáo sư đang công tác và giảng dạy tại các trường ĐH, các trung tâm Toán học lớn trên thế giới. Con số này ở các ngành khác cũng không nhỏ hơn. Vì thế, không có lý do nào để nói rằng chúng ta khan hiếm nhân tài.
Tại sao người tài của Việt Nam hay được biết đến ở nước ngoài và nổi danh từ nước ngoài, tôi cho rằng đó là vì bậc Đại học của ta không có đào tạo đỉnh cao. Cứ tốt nghiệp PTTH là các em có năng lực (có thể đã thể hiện bằng việc đoạt giải cao trong các kỳ thi trong nước và quốc tế) chỉ có một lựa chọn để phát huy hết khả năng của mình, đó là du học. Và, ngay cả khi tốt nghiệp, họ cũng phải lựa chọn một môi trường làm việc tốt nhất theo khả năng của mình ở nước ngoài để không bị mai một tài năng, dù họ vẫn cống hiến rất nhiều cho đất nước.
Tôi cho rằng, muốn có nhiều nhân tài, chúng ta phải có đào tạo đỉnh cao ở mọi cấp học. Chúng ta có cái gốc là phát hiện được các nhân tài ở tuổi thôi nôi qua hệ thống trường chuyên, nhưng thiếu cái ngọn là bậc ĐH và đầu ra là các Viện nghiên cứu, cái thiếu này vô cùng tiếc! Ở các nước Mỹ, Anh, Pháp… không có trường chuyên nhưng vẫn có rất nhiều nhân tài, đó là bởi vì trong các nền giáo dục tiên tiến ấy, đẳng cấp của đào tạo được tạo lập rất rõ ngay từ bậc học thấp nhất.
TS Phạm Duy Hiển
“Theo sách Khoa học công nghệ Việt Nam 2003 ở nước ta có khoảng 50.000 người làm khoa học, hàng năm công bố 7.000 công trình trên các tạp chí nội địa. Nhưng theo Viện thông tin Khoa học quốc tế Mỹ ISI, có chưa đến 700 người Việt Nam là tác giả của 450 công trình đăng trên các tạp chí quốc tế. Trung bình cứ 1 triệu người Việt Nam mỗi năm công bố 5,6 công trình, ít hơn Thái Lan 5,7 lần, Trung Quốc 6,6 lần, Malaysia 9,3 lần, Hàn Quốc 83 lần, Singapore 226 lần… Có thể nói tháp nhân tài của ta có đáy là mà thiếu đỉnh. Bởi ta có 50.000 người làm khoa học, gấp 4,7 lần Thái Lan và 5,6 lần Malaysia, nhưng chưa rõ hình hài của một nền khoa học. Chưa có trường Đại học nào của ta cận kề với tốp đầu trong khu vực chứ chưa nói gì đến thế giới…” (Thông tin do TS Phạm Duy Hiển cung cấp) |
Trên thế giới này, khi chọn người có trí thức vào một vị trí nào đó ở trường Đại học hay ở cơ sở nghiên cứu, kinh doanh, bao nhiêu danh hiệu GS, TS… sẽ không thuyết phục được ai, nếu ứng viên không trưng ra được danh sách công trình đăng trên các tạp chí nổi tiếng hoặc bằng sáng chế được quốc tế xác nhận. Song, xuất hiện trên tạp chí quốc tế chưa hề khẳng định anh là nguời làm khoa học có hiệu quả. Theo nhà sinh học Mỹ, Ray Wu, một nhà sinh học được xem là có hiệu quả nếu trong 10 năm anh ta công bố không ít hơn 8 công trình trên các tạp chí có chỉ số trích dẫn lớn hơn 2, trong đó ít nhất một công tình trên tạp chí có đó có số chỉ dẫn lớn hơn 5, theo tiêu chuẩn này, hiện nay ở Trung Quốc mới 500 nhà sinh học có hiệu quả. Có thể họ chưa được coi là nhân tài Trung Quốc nhưng đạt đến mức này là hiếm, nhất là ở các nước đang phát triển.
Hiếm hoi hơn nữa là những người thực sự có công khai phá trong khoa học. Theo Viện Thông tin khoa học quốc tế ISI - Mỹ, trên toàn thế giới hiện nay có khoảng 5000 người thuộc loại này, họ là những người được trích dẫn nhiều nhất trên các tạp chí quốc tế, phần lớn các nước tiên tiến. Chẳng hạn, riêng các trường Đại học Thuỵ Điển đã có 45 người. Trong khi đó, Trung Quốc với 1,4 tỷ dân chỉ có 5 người. Các “con rồng Châu Á” như: Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan… mỗi nơi không quá 48 người. Việt Nam, Thái Lan, Malaysia… không thấy ai!
Nhưng 5000 người này vẫn không phải đỉnh tháp nhân tài. Trên nữa là hàng trăm người được đề xuất làm ứng viên cho các giải thưởng khoa học rất danh giá như Nobel và Field, từ đó cuối cùng chỉ chọn ra chừng 10 người nhận giải hàng năm. Từ đó cho thấy sự tụt hậu về khoa học công nghệ của ta còn đáng sợ hơn nhiều sự tụt hậu về kinh tế. Trong số gần 700 người Việt Nam có mặt trên khắp tạp chí quốc tế, có lẽ không quá 20 nhà khoahọc hoạt động có hiệu quả theo cách đánh giá của Ray Wu. Cao hơn nữa, chưa ai lọt vào tốp 5000 người khai phá trong khoa học…
GS Đoàn Xuân Miệu - Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người
Có rất nhiều nghiên cứu về nhân tài. Ở một số nước, các viện nghiên cứu về não đã sưu tập não của các vĩ nhân để tìm hiểu đặc điểm đảm bảo tài năng như trọng lượng, nếp nhăn ở vỏ não… Kết quả cho thấy, về các phương diện ấy, não các vĩ nhân không khác gì não người bình thường. Não Lê - Nin nặng 1.340gr, trong khi não người bình thường trung bình nặng 1.400gr. Tuy nhiên, sự khác biệt là ở chỗ, trong 14 tỷ noron thần kinh ở người trung bình chỉ có 5% hoạt động hiệu quả. Ở người có năng khiếu về một phương diện nào đó là 5 - 10% và ở bậc thiên tài là 10 - 20%.
Khả năng đặc biệt của con người bộc lộ dưới 2 dạng: khả năng thông tin và khả năng về năng lượng sinh học. Khả năng đặc biệt về thông tin dễ nhận thấy thông qua những lĩnh vực cụ thể: Toán học, Vật lý, Âm nhạc, Tin học, Thể thao… Những khả năng này khi được đào tạo và bồi dưỡng, phát triển ở chất và lượng có thể tạo ra những bước ngoặt lớn cho sự phát triển của cộng đồng, xã hội. Và nhà nước có thể lập kế hoạch đào tạo đội ngũ đông đảo các cán bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ có trình độ cao, coi họ là nhân tài của đất nước, phát hiện trong đó những người có tài năng xuất chúng để bồi dưỡng đặc biệt nhằm phát huy hết khả năng của họ. Phân biệt giáo dục tâm trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng tài năng là ba khâu của một dây chuyền liên tục tạo nên sự phát triển.








