Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 11/07/2014 19:12 (GMT+7)

Vì sao xử lý ô nhiễm làng nghề vẫn bế tắc?

  Người dân ‘vô cảm’ với ô nhiễm
Biết chúng tôi là nhà báo, anh Vinh một hộ dân làm bún tại làng bún truyền thống Phú Đô, xã Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm không muốn tiếp chuyện và luôn miệng khẳng định rằng, nước thải từ việc làm bún từ gia đình anh không thể nào gây ô nhiễm được. “Chúng tôi toàn dùng nước sạch với nước vo gạo thì có gì mà ô với nhiễm!”, anh Vinh nói.

Khác với trường hợp của anh Vinh, vợ chồng ông Khánh, chủ cơ sở tái chế nhựa phế liệu tại thôn Triều Khúc, xã Tân Triều, Thanh Trì lại rơi vào tình trạng “biết là độc hại nhưng vẫn phải làm”. Ông Khánh nói rằng, cũng biết là trong khi sơ chế, xay xát nhựa sẽ tiếp xúc với nhiều hóa chất độc hại, rồi việc xả thẳng nước thải trong quá trình sản xuất vào cống nước thải chung sẽ gây ô nhiễm nhưng ông bà “cũng không biết làm gì khác ngoài nghề ‘truyền thống’ này để mưu sinh”.

Mặc dù quan niệm của anh Vinh và vợ chồng ông Khánh rất khác nhau. Song, họ đều có một điểm chung, đó là sự thờ ơ với sức khỏe bản thân cũng như môi trường xung quanh.

Bản thân anh Vinh cũng như nhiều người dân làng bún Phú Đô không biết rằng, chính những chất hữu cơ dễ phân hủy trong quá trình sản xuất bún của những người dân làng nghề đã giết chết các ao, hồ thậm chí cả những con sông chảy qua làng mình. Trong khi đó, vợ chồng ông Khánh thì bất chấp những nguy cơ độc hại đối với sức khỏe và khả năng gây ô nhiễm môi trường dù rằng mỗi kg nhựa xay thành phẩm, ông bà chỉ lãi được vài nghìn đồng.

Sự vô cảm bắt nguồn từ ý thức còn rất kém của người dân làng nghề là một trong những nguyên nhân khiến việc khắc phục ô nhiễm môi trường làng nghề gặp rất nhiều khó khăn.

GS Đặng Kim Chi, thuộc Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, người đã hơn 30 năm nay gắn bó với môi trường làng nghề cho biết, trong những năm qua, mặc dù rất nhiều mô hình xử lý nước thải đã được áp dụng với quy mô hộ sản xuất hay cụm hộ sản xuất gần nhau với mục đích nhân rộng, song tính bền vững của các mô hình này không cao.

GS Chi cho biết, người dân làng nghề rất ít hưởng ứng và tiếp nhận các mô hình mẫu nếu không được hỗ trợ kinh phí đầu tư và kinh phí vận hành. GS Chi kể, tại nhiều cơ sở sản xuất, sau khi bà và các đồng nghiệp về làm mẫu xong thì chủ cơ sở nhất định không chạy vì sợ tốn một tháng vài trăm ngàn tiền điện trong khi các nhà khác vẫn xả nước thải bình thường mà “chẳng ai phạt”.

"Không phải mô hình nào sau khi rút đi cũng có thể tiếp tục vận hành, hoặc vận hành đạt tiêu chuẩn môi trường”, GS Chi cho hay.

Bất cập cụm công nghiệp làng nghề

GS Đặng Kim Chi cho rằng, ý thức người dân ảnh hưởng rất lớn tới việc khắc phục ô nhiễm nguồn nước tại các làng nghề. 

Trong khi sự thờ ơ của người dân khiến việc áp dụng các biện pháp xử lý nước thải tại làng nghề gặp khó khăn thì chủ trương xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề (CCN) nhằm di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư cũng đang xuất hiện nhiều bất cập.

Năm 2010, huyện Thanh Trì đã thành lập cụm công nghiệp làng nghề xã Tân Triều nhằm chuyển các hộ làm nghề tại Triều Khúc và Yên Xá ra khỏi khu dân cư. Tuy nhiên, sau 4 năm triển khai, tới nay số lượng hộ dân làm nghề tại Tân Triều ra CCN rất ít, phần lớn vẫn tiếp tục sản xuất trong khu dân cư.

Trong khi đó, hầu hết các công ty, xưởng sản xuất đang hoạt động tại CCN đều từ địa phương khác chuyển đến. Điều này dẫn đến thực trạng oái oăm là trong khi các hộ dân không thể chuyển ra CCN làng nghề tiếp tục gây ô nhiễm tại khu vực dân cư thì bản thân CCN cũng gây ra những bức xúc cho người dân về ô nhiễm.

Anh Vinh, một người xã Tân Triều khẳng định, chính nước thải của các xưởng dệt nhuộm tại CCN làng nghề mới gây ô nhiễm nặng. “Cứ vào buổi đêm, các xưởng nhuộm làng nghề xả nước nhuộm ra là mùi hôi thối bay vào làng rất khủng khiếp. Chính việc xây làng nghề lại đang gây ra ô nhiễm nặng”, anh Vinh nói.

Trên thực tế, chuyện xảy ra tại làng Triều Khúc không phải là hiện tượng duy nhất tại Hà Nội cũng như trên cả nước. Vài năm trở lại đây, nhiều tỉnh, thành phố đã tiến hành xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề với mục đích đưa các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư, “tập trung lại một chỗ để dễ xử lý”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các CCN làng nghề lại đang biến thành khu vực giãn dân và mở rộng vùng ô nhiễm.

Thừa nhận thực trạng này, ông Trần Thế Loãn, Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát Ô nhiễm, Tổng Cục môi trường cho biết, tại hầu hết CCN làng nghề, UBND cấp huyện hoặc cấp xã được giao làm chủ đầu tư, nhưng cơ sở hạ tầng mới chỉ dừng lại ở việc cấp điện, hệ thống đường giao thông nội bộ đơn giản... mà không có các hạng mục, công trình về bảo vệ môi trường.

"Theo đánh giá và dự báo của nhiều chuyên gia mô hình CCN thành lập mà không xây dựng cơ sở hạ tầng bảo vệ môi trường, không quy định quản lý chặt chẽ ngay từ đầu đang và sẽ là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hàng đầu trong vài năm tới”, ông Loãn cho hay.

Trong khi đó, GS Đặng Kim Chi cho rằng, đặc điểm của làng nghề Việt Nam chủ yếu là tận dụng lao động nông nhàn và sản xuất ở quy mô gia đình là chính. Do vậy, việc tập trung thành một CCN thì các hộ sản xuất sẽ không tận dụng được những lao động không chính thức. Điều này dẫn đến tình trạng họ không muốn ra CCN do chính quyền thành lập hoặc có ra thì họ lại mang cả gia đình ra CCN để sinh sống. Vô hình trung, CCN làng nghề sẽ trở thành vùng đất giãn dân với giá ưu đãi trong khi vấn đề ô nhiễm không những không được khắc phục mà còn bị mở rộng.

Giải pháp nào cho ô nhiễm làng nghề?

Tìm kiếm một giải pháp tổng thể để giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm nguồn nước nói riêng và ô nhiễm môi trường nói chung tại các làng nghề trên địa bàn Hà Nội đang là vấn đề khiến các nhà khoa học cũng như các cơ quan quản lý trăn trở.

GS Đặng Kim Chi cho rằng, các giải pháp xử lý vấn đề ô nhiễm nguồn nước cũng như ô nhiễm môi trường nói chung tại các làng nghề cần phải căn cứ vào đặc thù công nghệ, đặc điểm sản phẩm của làng nghề. “Làng nghề bún, bánh thì nước thải khác làng nghề tái chế nhựa, tái chế kim loại, hay tái chế giấy đồng thời cũng khác làng nghề dệt nhuộm. Do vậy, việc áp dụng công nghệ chung để xử lý môi trường làng nghề là không khả thi mà phải phụ thuộc vào đặc thù riêng của chất thải sinh ra do hoạt động sản xuất của làng nghề ấy”, GS Chi nói.

GS Chi cũng cho rằng, một trong những vấn đề quan trọng trong việc đưa ra các giải pháp xử lý nguồn nước thải của các làng nghề chính là phải tìm được những công nghệ thật đơn giản, tốn ít đầu tư, chi phí vận hành thấp và việc vận hành phải hết sức đơn giản. Theo GS Chi, những người dân làng nghề làm nghề chủ yếu tận dụng thời gian và nhân lực nông nhàn, do vậy, để họ đầu tư vài tỉ đồng cho công nghệ xử lý nước thải chắc chắn là họ không chịu. Trong khi đó, đối với những người công nhân có nguồn gốc nông dân này, việc bắt họ phải tìm hiểu những công nghệ phức tạp là rất khó khăn.

Ở phương diện của cơ quan quản lý, ông Trần Thế Loãn lại cho rằng, khó khăn lớn nhất đối với việc khắc phục ô nhiễm làng nghề nói chung chính là nhận thức còn rất hạn chế và yếu kém của người dân làng nghề cũng như chính quyền địa phương đối với vấn đề ô nhiễm môi trường do làng nghề gây ra. “Nhiều cơ sở thực chất là hoạt động sản xuất công nghiệp nhỏ trên địa bàn dân cư nông thôn, lợi dụng danh nghĩa làng nghề để trốn tránh các trách nhiệm về xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu tiêu tốn nhiều điện, nước...”, ông Loãn nói.

Do vậy, theo ông Loãn, việc cần làm là phải xem xét lại khái niệm “làng nghề” cũng như quy hoạch làng nghề, phân biệt rõ các loại hình cũng như quy mô làng nghề cần được bảo tồn và những loại hình cần phải loại bỏ khỏi khu dân cư để có biện pháp xử lý phù hợp. Ông Loãn cũng cho rằng, các địa phương cần căn cứ vào đặc điểm của từng làng nghề để lựa chọn phương thức quy hoạch phù hợp, tránh việc lập các CCN ồ ạt nhưng không hiệu quả như trong thời gian qua.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.