Vì sao quýt vàng lá, rụng trái?
Triệu chứng: Lá quýt bị vàng, rụng đi chỉ còn lại một ít lá ngọn, hiện tượng trên có thể xuất hiện trên từng nhánh hoặc cả cây, sau đó cây chết. Bệnh gây hại khá trầm trọng nhất là trên quýt tiêu. Trên cây bệnh, lá chuyển sang màu vàng và rụng đi khi có gió. Lúc đầu có thể chỉ trên một vài nhánh nhưng sau đó cả cây bị rụng lá và chết. Thường lá già bị vàng và rụng trước, chỉ còn một số ít lá ngọn nên trông cây có vẻ trơ trụi. Cây bị bệnh sau đó có thể phát triển nhiều tược và lá non, bông trái nhưng trái nhỏ, chua. Nếu bệnh nặng cây chết hẳn, đào rễ lên, thấy rễ bị hư thối với các dấu hiệu: Vỏ rễ chính bị nứt dọc, tạo sẹo chai sần nhưng lõi rễ không bị thối. Vỏ rễ có các sọc nâu đen, bị thối rời rạc thành sợi, tróc khỏi lõi rễ. Lõi rễ bị thối nâu đen từ chóp lan dần vào. Rễ con bị héo hơi ngả vàng, phần vỏ rễ bị tuột khỏi lõi.
Tác nhân gây bệnh: Có thể do nhiều loài ký sinh khác nhau nên cần có biện pháp phòng ngừa tổng hợp. Bệnh thường gây hại nặng ở những vườn thiếu chăm sóc, có mực thuỷ cấp cao, thoát nước kém, thường xảy ra sau màu ngập lũ hay mưa dầm. Tình trạng ngập nước hay mực nước dâng cao gây ngập rễ và làm nước chiếm hết các khoảng trống trong đất, đất trở nên bão hoà, nước làm rễ không hô hấp được dẫn đến thiếu ôxy, đồng thời bị ngộ độc do khí CO 2từ rễ không thoát ra được dẫn đến rễ bị thối. Hiện tượng nghẹn rễ này làm cây bị “stress”, sản sinh khí Ethylenne bên trong cây, gây ngộ độc làm lá bị vàng và rụng. Khi bộ rễ bị tổn thương sẽ tạo điều kiện cho các loài ký sinh tấn công gây hại.
Phòng trị bệnh: Khi lập vườn mới nên trục và dọn sạch các bộ rễ dư thừa thực vật của hệ cây trồng cũ. Đất trồng phải cao ráo, thoát nước tốt, vườn có bờ ao để kiểm soát mực nước sao cho cách mặt đất ít nhất 4-5 tấc. Nếu liếp làm ruộng và trồng nhiều hàng thì phải có các mương rãnh phụ để giúp thoát nước nhanh sau mưa, tránh động nước cho các cây trồng ở hàng giữa. Trong mùa nắng tránh để cây bị khô hạn. Bón phân hữu cơ hay phân chuồng cho cây sẽ hạn chế được bệnh. Bón phân hữu cơ ngoài việc làm đất được tơi xốp, thoát nước tốt, rễ cây phát triển còn giúp cho nhiều vi sinh vật đối kháng với nấm bệnh trong đất phát triển tốt. Xới mặt đất quanh gốc, để trống một phần cổ rễ chính và rễ bàng lớn, chỉ phủ đất ở vùng ngọn rễ nơi kết tụ nhiều rễ con. Cách làm này giúp giảm ẩm và tăng cường ánh sáng để ngăn chặn sự phát triển của nấm bệnh.
Sử dụng thuốc hoá học: Đối với cây mới chớm bệnh, có thể tưới dung dịch hỗn hợp thanh phàn và vôi 1%. Cách pha: 1kg thanh phàn + 50 lít nước (pha trong chậu A), 1kg vôi sống + 50 lít nước (pha trong chậu B). Đổ chậu A từ từ vào chậu B khuấy đều cho phản ứng xảy ra chậm. Sử dụng Ôxyclorua đồng 0,5% (20 lít/gốc), Derosal hay Rovral (30-50g/10 lít/gốc). Để thuốc dễ ngấm nên xới nhẹ lớp đất mặt, tưới nước đầy đủ để toàn bộ rễ được ngấm nước trước, giúp nước có pha thuốc dễ thấm xuống rễ, phun lại sau 3-4 tháng. Xử lý kết hợp với thuốc Mocap, Marshel, Basudin 10H hoặc Regent 0,3G với liều lượng 30-50g/gốc để ngừa tuyến trùng hoặc côn trùng gây hại rễ.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số51 (485), 19/12/2005