Vi khuẩn kháng thuốc nỗi lo không của riêng ai
KS là những chất có khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn ngay ở nồng độ thấp. Cho nên, KS được dùng để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn hoặc dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn có khả năng gây thành dịch, cũng như dự phòng chống nhiễm trùng bệnh viện.
Năm 1941, tất cả các tụ cầu khuẩn vàng (Staphylococcus aureus) gây bệnh dễ dàng bị penicillin tiêu diệt, nhưng chỉ 3 năm chúng đã kháng thuốc bằng cách sản sinh ra một loại men (enzym) penicillase phân huỷ phân tử penicillin. Tương tự, một số VK khác tiết ra enzym beta lâctmase để chống ampicillin, hoặc acetyl transferase để chống chloramphenicol… Càng ngày càng có nhiều VK chống lại được với nhiều loại kháng sinh. Một số thống kê cho thấy hiện nay có hơn 95% vi khuẩn kháng thuốc penicillin. Nếu như vào năm 1941, 40.000 đơn vị penicillin mỗi ngày đủ chữa một người bệnh viêm phổi do VK Streptococcus pneumoniae (tác nhân chính gây viêm phổi, viêm màng não, viêm xoang…), thì hiện nay, một bệnh nhân bị nhiễm VK này phải nhận tới 24 triệu đơn vị penicillin mỗi ngày mà vẫn chết vì viêm não.
Sự kháng thuốc KS của các chủng VK tụ cầu vàng không những nguy hiểm trong nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện mà sẽ càng nguy hiểm hơn khi xuất hiện trong cộng đồng. Các nhà nghiên cứu nhận định rằng các chủng VK tụ cầu vàng đề kháng với KS trong cộng đồng đã trở thành một vấn đề toàn cầu, vì nó gây nên tình trạng nhiễm trùng nặng và khó điều trị hơn chủng VK kháng thuốc trong bệnh viện. Chính vì thế mà việc tìm ra loại thuốc mới để chống lại chúng là vấn đề hết sức cấp thiết và hàng đầu đối với sức khoẻ của cộng đồng.
VK có khả năng kháng thuốc là do chúng sinh sản theo cấp số nhân cực kỳ nhanh và khả năng đột biến gen (biến đổi yếu tố di truyền) có thể truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Dưới tác dụng của một liều KS, đa số VK sẽ bị tiêu diệt, nhưng có một số ít thoát chết nhờ tiết ra một số enzym giúp thích nghi với môi trường mới hoặc phát huỷ kháng sinh và chúng sẽ phát triển theo nguyên lý chọn lọc tự nhiên.
Ngoài sự đột biến bất ngờ, những VK kháng thuốc còn do chúng chiếm lấy các yếu tố di truyền của VK khác. Những yếu tố đó chuyển từ VK này sang VK khác nhờ plasmid, là một cấu trúc AND mạch vòng nằm ngoài nhiễm sắc thể và có khả năng tự sao chép độc lập trong tế bào. Plasmid chuyển những yếu tố di truyền gen kháng thuốc từ loài VK này sang loài VK khác.
Mới đây, người ta thấy các enzym beta-lactamase phổ rộng (ESBL) vốn có ở các loài Klebsiella nay đã phân bố rộng rãi trong E.coli. Vi khuẩn E.coli sản sinh ESBL mới này kháng lại penicillin và cephalosporin và trở thành tác nhân nguy hiểm gây các bệnh truyền nhiễm đường niệu.
Để hạn chế việc VK kháng lại KS, trước hết, cần sử dụng KS hợp lý theo nguyên tắc: chỉ dùng KS để điều trị bệnh nhiễm khuẩn. Không dùng KS để điều trị bệnh do virus gây ra, vì đã có thuốc dùng riêng. Ngay từ đầu chỉ nên dùng KS có phổ hẹp. Ở cơ sở y tế nào có điều kiện làm kháng sinh đồ thì nên dựa vào kết quả kháng sinh đồ để lựa chọn KS cho phù hợp với từng loài VK gây nên từng loại bệnh. Qua kết quả kháng sinh đồ, thầy thuốc sẽ chọn được KS thích hợp để điều trị. Đặc biệt, kháng sinh đồ giúp thầy thuốc xác định được liều lượng dùng để điều trị. Khi đã chọn được KS thì phải dùng đủ liều lượng và thời gian. Nếu không tuân thủ, bệnh không những không khỏi mà còn làm cho VK kháng lại KS. Luôn luôn đặt khâu vô trùng và tiêu trùng lên hàng đầu để hạn chế lây lan mầm bệnh trong đó có cả VK kháng thuốc. Mỗi một cơ sở y tế nên thường xuyên có sự giám sát chặt chẽ hiện tượng kháng thuốc KS của VK.
Phương pháp chọn KS là nên dùng loại phổ hẹp dựa vào đặc tính dược động học và đặc tính của từng loại thuốc. Người thầy thuốc còn nên chọn thuốc dựa vào khả năng sẵn có và tính kinh tế (rẻ tiền) để tạo điều kiện giúp người bệnh dễ dàng mua được thuốc và dùng đủ số thuốc trong đơn. Nên chọn loại KS có số lần dùng thuốc trong ngày ít, khả năng chi trả thấp nhất, đường đưa thuốc vào cơ thể thuận lợi nhất. Cần hướng dẫn cho người bệnh dùng thuốc đúng quy định. Những loại bệnh nhiễm trùng có nhiều loài VK cùng hợp đồng gây nên như đa chấn thương, viêm tuỷ xương, bệnh lao thì nên phối hợp thuốc KS nhất là đối với VK đa kháng thuốc và cần lưu ý tránh tương tác bất lợi.