Vedan: Bài học về hoàn thiện và thượng tôn pháp luật
Vụ Vedan chỉ là một trong nhiều (thậm chí rất nhiều) trường hợp vi phạm pháp luật môi trường của doanh nghiệp. Được nhắc tới một cách đặc biệt, bởi đơn giản nó hội tụ tất cả những yếu tố cần thiết để thu hút sự chú ý của dư luận xã hội. Chắc chắn, nếu có biện pháp theo dõi, kiểm tra thích hợp, chặt chẽ, thì sẽ có không ít vụ vi phạm pháp luật tương tự, thậm chí nghiêm trọng hơn, được phanh phui.
Một biên bản vi phạm hành chính đã được lập; dự kiến một số tiền phí bảo vệ môi trường lên tới nhiều chục tỷ đồng sẽ được truy thu. Tuy nhiên, hẳn công luận sẽ hả dạ hơn nếu được chứng kiến cảnh một nhân vật đầy quyền lực nào đó của công ty được lôi ra trước vành móng ngựa để nghe kể tội và cúi đầu chấp nhận hình phạt thật nặng.
Người dân sinh sống tại lưu vực sông Thị Vải, về phần mình, có thể cảm thấy được an ủi nếu những thiệt hại mà họ phải gánh chịu bao nhiêu năm nay, do môi trường sống bị huỷ hoại, được bồi thường thoả đáng. Song, muốn quy trách nhiệm dân sự cho Vedan thì phải chứng minh được mối liên hệ nhân quả giữa hành vi khai thác doanh nghiệp với thiệt hại của người dân. Việc chứng minh đòi hỏi thực hiện một loạt biện pháp giám định kỹ thuật phức tạp mà chắc chắn không một người dân riêng lẻ nào đủ sức thanh toán chi phí.
Thực ra, vấn đề cốt lõi bật ra từ câu chuyện ấy không phải là xử phạt người vi phạm ở mức hành chính hay hình sự hay là làm thế nào để người dân bị thiệt hại được bồi thường thoả đáng. Vẫn còn đó bao nhiêu doanh nghiệp khác vẫn đang tiếp tục xả chất thải độc hại xuống nguồn nước công cộng mà chưa bị đưa ra trước công luận; còn bao nhiêu dòng sông đang chết dần mòn và bao nhiêu cộng đồng dân cư đang bị bần cùng hoá vì bị tước đoạt phương tiện, điều kiện sinh sống.
Một đứa trẻ cũng hiểu được rằng Nhà nước không bao giờ có đủ tiền chi phí cho việc bố trí cảnh sát ở khắp nơi để mật phục, chờ bắt được doanh nghiệp trong tình trạng phạm pháp quả tang. Vả lại, không thể nói rằng xã hội được tổ chức tốt khi nó chỉ dựa vào sức mạnh trấn áp của nhà chức trách. Nói cách khác, phát hiện được và xử lý nghiêm trường hợp vi phạm của Vedan là tốt; nhưng sẽ tốt hơn nhiều, nếu không có những Vedan phạm pháp.
Ở góc độ tâm lý, có hai cách lý giải hành động của Vedan và, nói chung, của các doanh nghiệp vẫn đang lẳng lặng và liên tục đầu độc môi trường tự nhiên: hoặc họ phát hiện được các kẽ hở của pháp luật và đã lách qua đó; hoặc họ nhận thấy đang sống trong một xã hội mà luật pháp không hữu hiệu và người ta có thể dễ dàng vô hiệu hoá nó bằng nhiều cách.
Ít nhất, nếu biết rằng mình có thể phải đứng trước vành móng ngựa do một hành vi nào đó, thì chủ thể sẽ dè chừng trong ứng xử. Với các quy định của pháp luật hiện hành, nhà chức trách không bao giờ có cơ hội gán tư cách bị cáo cho một công ty, bởi luật không coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm hình sự.
Xả chất thải độc hại chưa được xử lý, doanh nghiệp có thể bị xử phạt hành chính; có tái phạm thì cũng chỉ bị chế tài đến mức đó. Muốn xử lý vi phạm về mặt hình sự, nhà chức trách phải tìm được cá nhân thành viên nào đó của doanh nghiệp đủ điều kiện “đảm nhận” vai trò tác giả của hành vi; và tất nhiên, nếu cá nhân bị xử phạt, thì pháp nhân doanh nghiệp sẽ thoát nạn.
Mặt khác, không thể tin lời “tâm sự” của người đại diện Vedan, theo đó, họ đã vi phạm pháp luật vì không hiểu rõ nội dung các quy tắc pháp lý liên quan của nước sở tại. Chấp nhận bỏ ra một khoản đầu tư lớn để xây dựng cơ sở kinh doanh tại đây, họ không ngây thơ, cẩu thả đến mức ấy để đẩy cơ nghiệp của mình vào chỗ rủi ro.
Rõ hơn, việc doanh nghiệp vi phạm pháp luật một cách có hệ thống và kéo dài cho phép người ta nghĩ rằng đối với họ, các hệ luỵ của hành vi phạm pháp đều nằm trong tầm kiểm soát: nhà đầu tư tin rằng trong mọi trường hợp, họ vẫn sống sót và có điều kiện tiếp tục theo đuổi mục tiêu đã được xác định; không một chế tài nào đánh gục được họ. Niềm tin này không thể từ trên trời rơi xuống: nó phải hình thành, được thử thách và củng cố theo thời gian, đặc biệt là qua quá trình giao tiếp, ứng xử trong một khung cảnh sống tồn tại những mối quan hệ có sức mạnh đẩy lùi được pháp luật.
Với niềm tin ấy, thì cụm từ “môi trường đầu tư thuận lợi” có điều kiện được nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận với nội hàm rất đặc thù. Đó không chỉ là nơi có nhân công giá rẻ, mà cả việc trả giá cho các hành vi vi phạm pháp luật cũng rẻ. Trong một môi trường làm ăn “cởi mở” như thế, nhà đầu tư chẳng cần nghiêm túc suy nghĩ, cân nhắc tìm ra giải pháp kỹ thuật, kinh tế cho bài toán lợi nhuận; chỉ cần tập trung vắt kiệt sức lao động của công nhân, đặc biệt là tận lực khai thác sức sống của môi trường tự nhiên của nước sở tại. Một khi tất cả đều cạn kiệt, thì đi nơi khác.
Để không phải tiếp tục nghe nói về những Vedan huỷ hoại môi trường, hoàn thiện hệ thống luật chỉ mới là điều kiện cần; phải bảo đảm tính tối thượng của luật trong hệ thống chuẩn mực khách quan và bảo đảm việc áp dụng pháp luật một cách nghiêm chỉnh, nhất quán trong tất cả mọi trường hợp, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Phổ biến ý thức tôn trọng pháp luật, chứ không phải tăng cường bộ máy trấn áp, mới là biện pháp chủ lực bảo đảm sự trong lành của môi trường tự nhiên và cả môi trường xã hội.