Về tình hình chính trị - xã hội thời Trịnh Tùng cầm quyền
Trong thời kỳ Trịnh Tùng cầm quyền chính (1570 - 1623), tình hình chính trị - xã hội của đất nước diễn biến khá phức tạp, trong đó nổi lên một số vấn đề lớn sau:
Nội chiến Nam – Bắc triều
Từ năm 1570 trở đi cuộc nội chiến Nam - Bắc triều diễn ra rất quyết liệt. Trên thực tế, cuộc nội chiến kéo dài gần nửa thế kỷ (1545 - 1592) với 38 trận đánh lớn nhỏ và địa bàn chiến sự chủ yếu là vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình. Khi cuộc chiến tranh nổ ra, giang sơn Đại Việt bị cắt xẻ. Mỗi thế lực phong kiến chiếm giữ một khu vực với chính sách cai trị riêng. Họ Mạc ở vùng trung châu Bắc bộ; Vương triều Lê - Trịnh quản lý mạn nam, từ Thanh - Nghệ đến Thuận - Quảng; họ Vũ kiểm soát miền Tuyên Quang. Tình trạng cát cứ kể trên đã làm cho giao thông đi lại khó khăn, gây hạn chế rất lớn trong quá trình giao lưu kinh tế, mua bán đổi chác.
Trong thời kỳ chiến tranh, hậu quả của nó tác động tiêu cực đến đòi sống của các tầng lớp nhân dân lao động. Đó là sự đốt phá, cướp bóc, sát hại sinh mạng lương dân diễn ra thường xuyên ở những nơi chiến tranh lan đến. Mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp bị định trệ, làng xóm tiêu điều, phố phường xơ xác.
Đầu năm 1593, quân Nam triều chiếm được Kinh thành trong cảnh hoang tàn đổ nát. Để chuẩn bị đón vua Lê ra ngự ở Thăng Long, Trịnh Tùng sai điều động binh thợ gấp rút sửa sang tu bổ cung điện để đón xa giá từ Thanh Hóa tiến ra. Ngày 16 tháng 4 năm Quý Tỵ (1593), vua Lê ngự lên chính điện, “trăm quan chầu mừng”. Sự nghiệp trung hưng nhà Lê về cơ bản đã hoàn thành trọn vẹn.
Hoạt động của dư đảng nhà Mạc
Mặc dù nhà Lê đã chiếm lại được Thăng Long từ năm 1593 nhưng dư đảng nhà Mạc còn hoạt động rất mạnh ở vùng Đông Bắc, vùng Thái Nguyên, Cao Bằng. Một số quý tộc Mạc chạy về Hải Dương, An Quảng và các trấn xa Thăng Long chiêu tập quân chống lại nhà Lê. Địa bàn chiếm cứ của dư đảng nhà Mạc được sử cũ cho biết như sau:
Năm ấy (tức năm 1594), các xứ Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn can qua rối động. Khánh vương Mạc Kính Khoan chiếm giữ huyện Đại Từ, Thứ vương chiếm giữ Thái Nguyên, An quận công chiếm giữ Phổ Yên, Yên Dũng vương chiếm giữ Võ Nhai, Việt quốc công chiếm giữ huyện Sơn Dương… các quận huyện bị tàn khổ vì cướp bóc và binh lửa (1).
Tháng 5 năm Giáp Ngọ (1594), Tiết chế Trịnh Tùng sai Phó tướng Trịnh Đỗ, Thái bảo Trịnh Ninh thống suất các tướng ở Thái Nguyên do hàng tướng nhà Mạc là Liêm quận công dẫn đường đánh dẹp xứ Thái Nguyên, phá dinh của Vĩnh quận công. Vĩnh quận công đem dư đảng chạy đến huyện Võ Nhai. Trong năm này, dư đảng nhà Mạc tiếp tục nổi lên ở Thái Nguyên. Tín quận công nổi quân chiếm cứ huyện Võ Nhai, sai bộ thuộc là Ninh quốc công đem quân chống đánh quân Lê - Trịnh ở Thái Nguyên. Uy vương Mạc Kính Dụng cũng sai bộ tướng là Xuân Sơn hầu và Văn quốc công đem quân đánh úp Thái Nguyên nhưng bị Nguyễn Hoàng đánh tan.
Tháng 6 năm Giáp Ngọ (1594), người xã Vũ Lăng, huyện Tiên Minh là Vũ Đăng nổi quân chiếm cứ huyện Siêu Loại, tụ họp bè đảng, tự xưng là La Bình năm thứ 1. Tiết chế Trịnh Tùng bắt được đem chém.
Tháng 4 năm 1595, Trịnh Tùng sai Chỉ huy sứ Trung Tín hầu Phan Cảnh Quang cùng với Tổng binh Thái Nguyên là Đức Trạch hầu Lại Thế Quý đem quân đến châu Cảm Hóa đánh Uy vương Mạc Kính Dụng, chém được 600 thủ cấp. Bộ tướng Mạc Kính Dụng là Xuân Sơn hầu cùng với người huyện Phổ Yên là bọn Tấn quận công, Thắng quận công, Quế quận công họp quân được 500 người cướp bóc huyện Tam Dương, bị huyện quan đem dân binh tiến đánh dẹp tan. Xuân Sơn hầu lại đem bộ thuộc đánh cướp huyện Phổ Yên nhưng bị quân triều đình đánh thua, Xuân Sơn hầu ra hàng, bị đưa về kinh sự giết chết.
Giữa năm 1598, Mạc Kính Dụng lại tụ họp bè đảng ở huyện An Bác, nhiều lần tiến đánh Thái Nguyên nhưng bị thua luôn, sau bị thổ quan là Phú Lương hầu phục quân giết chết.
Để dẹp yên các nhóm nổi dậy ở Thái Nguyên, cuối năm 1598, Trịnh Tùng sai Lại Thế Quý đem quân đánh Thái Nguyên, sai thổ quan Cao Bằng là Dũng quận công Hà Ích đem quân đánh châu Định Hóa giết chết Trung Quốc công. Trong khoảng gần 10 năm, dư đảng nhà Mạc nổi lên chiếm cứ khắp nơi. Năm 1600, lợi dụng nội bộ triều đình Lê - Trịnh có mâu thuẫn, quân Mạc lại đem quân đánh Thăng Long. Trịnh Tùng buộc phải đưa vua Lê về Thanh Hóa, rồi ra quân đánh dẹp. Do có sự can thiệp của nhà Minh, triều Lê - Trịnh buộc phải cho họ Mạc nương náu ở Cao Bằng.
Năm Mậu Ngọ (1618), triều đình Lê Trịnh phát hai đạo binh tiến lên Cao Bằng đánh Mạc Kính Khoan. Tuy nhiên, mãi đến mùa xuân năm Đinh Tị (1677), chúa Trịnh sai Đinh Văn Tả chỉ huy đại quân tiến đánh Cao Bằng, mới lấy lại được 4 châu. Nhà Mạc ở Cao Bằng cơ bản bị tiêu diệt.
Sự phân biệt Đàng Trong - Đàng Ngoài
Nguyễn Hoàng được cử vào làm trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, đúng vào thời điểm cuộc nội chiến Nam - Bắc triều gữa hai thế lực Lê - Trịnh (Nam triều) và Mạc (Bắc triều) bắt đầu diễn ra căng thẳng, quyết liệt. Miền đất Thuận - Quảng cũng là địa bàn tranh chấp, giành giật giữa hai thế lực này.
Trong cuộc nội chiến - Nam Bắc triều kéo dài hơn 2/3 thế kỷ, hai xứ Thuận - Quảng có một vị trí rất quan trọng quyết định tới sự thành bại của sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Phạm vi quản lý của chính quyền Lê - Trịnh trong thời kỳ này chủ yếu là dải đất từ Thanh - Nghệ trở vào, do đó Thuận - Quảng không chỉ là bức phên dậu che chắn bảo vệ phía nam Thanh - Nghệ mà còn là hậu phương vững chắc và an toàn của triều đình Lê - Trịnh. Nếu để mất Thuận - Quảng vào tay nhà Mạc thì hầu như miền Thanh - Nghệ bị cô lập hoàn toàn. Nhà Lê không những bị mất đi nguồn dự trữ quân lương sẵn có mà còn thường xuyên phỉa đối phó lại sự tấn công của quân Mạc từ hai phía bắc, Nam . Do đó, việc chọn cử người vào trấn thủ miền đất này ngoài những bậc huân thần kỳ cựu ra khó có ai đảm đương nổi. Tài thao lược của Nguyễn Hoàng cũng như uy tín của dòng tộc thế gia đã tạo nên những điều kiện cần và đủ giúp Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm giao phó đảm nhận vai trò to lớn này.
Năm 1593, khi công cuộc trung hưng của nhà Lê hoàn thành, Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa “ thân đem tướng sĩ, voi ngựa thuyền ghe đến Kinh lạy chào, và đem sổ sách về binh lương, tiền lụa, vàng bạc, châu báu, kho tàng của hai trấn Thuận Hóa, Quảng Nam dâng nộp. Tiết chế Trịnh Tùng dâng biểu tâu cho Hoàng làm Trung quân đô đốc phủ Tả đô đốc Chưởng phủ sự Thái úy Đoan quốc công, sai tổng đốc tướng sĩ bản dinh và thống lĩnh 300 chiếc thuyền lớn nhỏ của thủy quân các xứ Nam đạo đi đánh giặc biển ở các xứ Sơn Nam, Hải Dương” (2).
Nguyễn Hoàng lưu lại Thăng Long trong thời gian 8 năm. Giữa năm 1600, lợi dụng sự phản loạn của Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê đem quân phụ theo họ Mạc (có sự xúi giục của Nguyễn Hoàng), ông “ giả vờ xin đem quân đi đuổi đánh, rồi đốt hết doanh trại trốn về Thuận Hóa”. Từ đây, ý đồ lập giang sơn riêng của Nguyễn Hoàng mới bộc lộ rõ và xứ Quảng Nam “ đất đai phì nhiêu nhất thiên hạ”, “ dân đông, sản vật giàu có là yết hầu của miền Thuận - Quảng” đặc biệt được Nguyễn Hoàng chú ý kinh dinh.
Biến đổi sâu sắc của thiết chế chính trị Đàng Ngoài
Góp phần vào sự nghiệp trung hưng của nhà Lê ở xứ Thanh tiếp theo sau dòng họ Nguyễn (khởi đầu là Nguyễn Kim), dòng họ Trịnh có công lao rất lớn. Cùng với thời gian, thế lực của họ Trịnh bên cạnh vua Lê ngày càng được củng cố và khẳng định một cách vững chắc.
Ngày mùng 7 tháng Tư năm Kỷ Hợi niên hiệu Quang Hưng thứ 22 (1599) vua Lê Thế Tông đặc sai Thái tử vinh Quốc công Hoàng Đình Ai đem kim sách (3) phong Trịnh Tùng làm Đô nguyên súy Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương, được lập phủ riêng và lập thế tử thế tập tước phong. Với chức tước được phong là Đại nguyên súy Tổng quốc chính…, trên thực tế Chúa Trịnh đã thâu tóm phần lớn quyền lực về quân sự, chính trị, dân chính của cả nước.
![]() |
| Rồng đá |
Triều đường (hay triều đình) vốn là nơi vua Lê hội họp các quan văn võ đại thần bàn chính sự. Tuy nhiên, thời Trịnh Tùng trở đi thực quyền gần như nằm cả trong tay chúa Trịnh, nên khi cần bàn việc quốc sự công việc điều hành guồng máy cai trị, các quan thường sang bên Phủ đường hội họp với chúa Trịnh và triều đường chỉ còn là nơi các quan vào chầu vua theo nghi thức định kỳ. Phủ đường là nơi Chúa Trịnh họp các đại thần để bàn việc quân quốc trọng sự và điều hành guồng máy cai trị trong nước.
Sang thời Lê Trung hưng, từ năm 1599, Ngũ phủ phủ quân đặt dưới quyền điều động chính của Chúa Trịnh (ngũ phủ quân là sản phẩm của triều đình nhà Lê, chuyên về quân sự). Năm Cảnh Trị thứ 2 (1664) triều vua Lê Huyền Tông (1663 - 1671) “bắt đầu đặt chức quan Chưởng phủ sự và Thự phủ sự trong ngũ phủ”. Nhìn chung, những người đứng đầu các phủ quân đều thuộc tôn thất họ Trịnh hoặc là huân thần được chúa Trịnh đặc biệt tin cậy.
Triều đại Vua Lê - Chúa Trịnh, Triều đường và Phủ đường cùng song song tồn tại trong suốt gần 2 thế kỷ XVII - XVIII trở thành một định chế đặc biệt ở nước ta thời phong kiến. Sự hiện diện của cung Vua - phủ Chúa với tổ chức triều đường và phủ đường mà hai đại diện chính là Vua Lê - Chúa Trịnh được quan niệm như là chế độ “lưỡng đầu”.
Trong bối cảnh chính trị phức tạp như vậy, với năng lực chính trị đặc biệt, Trịnh Tùng đã từng bước kiện toàn và tăng cường hiệu quả quản lý của bộ máy chính quyền từ Trung ương đến các địa phương; tổ chức khoa cử để kén chọn nhân tài, ban hành nhiều chính sách lớn để phát triển kinh tế, đồng thời tăng cường lực lượng quân sự bảo vệ vương triều và dẹp nội loạn…
Đánh giá về Trịnh Tùng, sử gia Phan Huy Chú viết: “Ông tính khoan hậu, yêu người, khéo vỗ về tướng sĩ, đoán tình thế của giặc không sai, dùng binh như thần. Trong 20 năm kinh dinh đất nước, cuối cùng dẹp được kế tiếm nghịch, khôi phục nhà Lê, công trùm thiên hạ, oại lừng khắp nơi, mới được sắc phong vẻ vang, lễ đãi long trọng. Ông thực sự làm chúa cầm quyền chính, công lao sự nghiệp danh vọng lừng lẫy. Chúa từng giúp Kính Tông, Trần Tông, giữ việc chính 53 năm” (4).
Những nhận xét đánh giá của Phan Huy Chú cũng đã lý giải thêm một điều: thời kỳ Trịnh Tùng cầm quyền, ở Đàng Ngoài xuất hiện khá nhiều nhà chính trị tài năng như Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thực, Nguyễn Nghi, Lê Bật Tứ, Lưu Đình Chát, Nguyễn Duy Thì. Họ là những danh nho, danh liêm, cần, trung, chính, giàu lòng nhân ái, là những nhân vật lịch sử tiêu biểu có công lao, tài đức đặc biệt.
Chú thích
1.Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, Nxb KHXH, Hà Nội 1967, tr 202.
2.Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, sđd, tr 200.
3.Kim sách : có hai loại sách: Kim sách và Ngân sách.
Kim sách (sách gồm những tờ vàng) chép tôn hiệu, thụy hiệu của đương kim Hoàng đế hay của vua trước, hoặc ghi lời bài văn phong tước cho chúa Trịnh.
Ngân sách (sách gồm những tờ bạc) chép những lời văn phong chức tước của vua cho Hoàng tử hay các đại thần từ tước công trở lên.
Theo Lê triều hội điển: Kim sách nặng 12 lạng, có 6 tờ, mỗi tờ dài 5 tấc 3 phân; rộng 3 tấc 5 phân và khắc 5 hàng chữ. Phó kim sách làm bằng giấy trang kim vẽ rồng, viết theo cùng một lối chữ.
4. Phan Huy Chú:Lịch triều Hiến chương loại chí (nhân vật chí), tập I, Nxb Giáo dục, 2006, tr 251.









