Vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị là một lực lượng cán bộ lãnh đạo quan trọng, đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị, tham gia định hướng chính trị và chịu trách nhiệm chính khi quyết định những vấn đề quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn lao về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... Là bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, vai trò của người cán bộ lãnh đạo chính trị thể hiện trong các mối quan hệ: Ban hành đường lối, chính sách - tổ chức thực hiện - công tác quần chúng. Nói cách khác, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo chính trị là ở việc hoạch định đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách đó. Với trọng trách to lớn như vậy, việc xây dựng đạo đức cho đội ngũ này là hết sức cần thiết, nhất là khi đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị không chỉ phấn đấu để có tài năng và trí tuệ, mà còn phải trau dồi đạo đức cách mạng hơn nữa. (*)
Pháp luật là yếu tố có vai trò quan trọng trong xây dựng đạo đức nói chung, đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng. Bởi lẽ, pháp luật không chỉ củng cố những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho các giá trị đó thấm sâu và phát huy mạnh mẽ trong hệ giá trị đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị, mà còn góp phần giúp họ xây dựng, củng cố, bảo vệ và hoàn thiện những giá trị đạo đức mới, tiến bộ hơn. Pháp luật còn giúp họ loại trừ những quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu, không còn phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng xã hội, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp đạo đức, ngăn chặn việc hình thành những quan niệm, quan điểm đạo đức trái thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội.
Pháp luật và đạo đức có nhiều điểm tương đồng, khi chúng cùng tham gia vào đời sống xã hội với tư cách những công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật và đạo đức cũng có những điểm khác biệt, song đó không phải là sự đối lập, mâu thuẫn, xung đột với nhau, mà sự khác biệt đó thể hiện điểm mạnh, điểm yếu khác nhau giữa pháp luật và đạo đức khi cùng thực hiện chức năng của mình.
Thế mạnh của pháp luật là khả năng điều chỉnh rõ ràng, dứt khoát theo ý chí của giai cấp cầm quyền đối với các quan hệ xã hội. Sự điều chỉnh này thống nhất trên một phạm vi rộng theo những trình tự, cơ chế do luật định, đặc biệt là sự đảm bảo thực hiện pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước với hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật, như tòa án, quân đội, cảnh sát, nhà tù,... Trong khi đó, thế mạnh của đạo đức lại là khả năng tham gia điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội, mọi góc độ tình cảm trong đời sống giữa cá nhân và nhà nước, cá nhân với cá nhân và cá nhân với chính bản thân mình. Bằng cơ chế điều chỉnh từ bên trong, đạo đức tác động đến đời sống tình cảm, danh dự, uy tín của mỗi con người để từ đó, hình thành những lối ứng xử phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội và thực hiện chúng bằng niềm tin nội tâm, sự tự giác và sức ép của dư luận xã hội. Vì vậy, sử dụng pháp luật trong xây dựng đạo đức nói chung, đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị là hết sức cần thiết để từ đó, nâng cao một cách căn bản chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị, làm cho đội ngũ này có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay và qua đó, tác động trực tiếp đến sự phát triển và tiến bộ xã hội. Vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị được biểu hiện như sau:
Một là, pháp luật củng cố những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho các giá trị đạo đức đó thấm sâu và phát huy mạnh mẽ trong hệ giá trị đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị.
Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi của nó. Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được lưu giữ cho đến thời điểm hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến, có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo dựng trong lịch sử phát triển lâu dài trên dải đất Việt Nam với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó. Các giá trị đạo đức truyền thống này được hình thành trong những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là kết quả và là động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của dân tộc Việt Nam, mang đậm nét đặc thù của sự phát triển xã hội trong lịch sử Việt Nam. Đó còn là kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo những tinh hoa của nhiều trào lưu tư tưởng, văn hóa lớn của thế giới để bồi đắp thêm cho những giá trị đạo đức - văn hóa vốn có của mình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta đã được nhận thức một cách khoa học, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng. Đạo đức mới được thể hiện ở lòng nhiệt tình cách mạng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị trong việc đề ra và thực hiện đường lối của Đảng, được kết tinh trong những hành động dũng cảm và quyết thắng trước mọi nhiệm vụ, mọi khó khăn, thử thách và trước mọi kẻ thù. Đạo đức mới ấy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị đang phát huy sức mạnh của nó trên mọi lĩnh vực của đời sống hàng ngày. Để cho đạo đức mới của đội ngũ cán bộ này được thực sự củng cố và không ngừng hoàn thiện, thì điều không thể thiếu là phải kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước, đức tính cần cù, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, lòng nhân ái, đức khoan dung, tính trung thực... Đây là những giá trị đã làm nên bản sắc Việt Nam, tâm hồn, lối sống con người Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và đồng thời cũng là những nội dung cốt lõi trong hệ giá trị đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Đạo đức có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành các quy định trong pháp luật. Đạo đức như là môi trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là chất liệu làm nên các quy định của pháp luật. Có thể nói, bất kỳ một hệ thống pháp luật nào cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên một nền tảng đạo đức nhất định, đặc biệt là những giá trị đạo đức truyền thống đã được hình thành, củng cố, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong hệ thống các quy phạm pháp luật luôn có bóng dáng của giá trị đạo đức truyền thống. Những quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức truyền thống đã được thừa nhận và khẳng định giá trị của mình luôn đóng vai trò là tiền đề tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng các quy định cụ thể của pháp luật.
Thừa nhận các giá trị đạo đức truyền thống, các phong tục, tập quán đạo đức truyền thống có giá trị, biến chúng thành tập quán pháp luật, giá trị pháp luật, Nhà nước ta chủ trương làm cho các giá trị đó trở nên bền vững, tiếp tục phát huy vai trò của chúng trong đời sống cá nhân và cộng đồng xã hội. Chính vì vậy, khi được xây dựng trên cơ sở của các giá trị đạo đức truyền thống, phù hợp với các giá trị đạo đức truyền thống nền tảng, được cá nhân, cộng đồng tự giác, tự nguyện thực hiện, pháp luật đã trở thành một hình thức hữu hiệu củng cố những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho các giá trị đạo đức đó trường tồn, tiếp tục thấm sâu và phát huy mạnh mẽ trong đời sống xã hội nói chung, trong việc xây dựng đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng.
Hai là, pháp luật xây dựng, củng cố và bảo vệ các giá trị đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị; đồng thời, góp phần hình thành, hoàn thiện những giá trị đạo đức mới, tiến bộ hơn cho họ.
Là hệ thống quy tắc ứng xử do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, pháp luật tác động mạnh mẽ đến đạo đức nói chung, đạo đức của cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng thông qua việc củng cố các giá trị đạo đức vốn có và xây đắp những giá trị mới, tiến bộ bằng các quy phạm pháp luật.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, pháp luật có những chức năng khác nhau, trong đó nổi bật nhất là chức năng giáo dục.
Một bộ luật, đạo luật trước khi có thể đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò và hiệu lực điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, nó phải được mọi người nhận thức, hiểu rõ; trên cơ sở hiểu biết đó, những khái niệm, phạm trù, nguyên tắc lại trở thành công cụ để con người nhận thức các hệ thống pháp luật, các quan hệ và hành vi pháp luật. Nâng cao trình độ nhận thức của con người cũng chính là phát huy những tiềm năng, năng lực bản chất của con người. Đó là bước đầu có ý nghĩa quan trọng để hoàn thiện con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Do đó, bản thân pháp luật luôn chứa đựng tính chất nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động trong lĩnh vực pháp luật cũng là khát vọng hướng tới hệ giá trị Chân, Thiện, Mỹ - ba trụ cột vĩnh hằng của đạo đức con người, ba giá trị phổ quát của nhân cách con người. Hiểu pháp luật, thực hiện pháp luật chính là hình thức con người dưới tác động của pháp luật nhằm thực hiện hoạt động bảo tồn, củng cố và phát huy các giá trị đạo đức vốn có, làm cho các giá trị đạo đức ấy không bị mai một mà trái lại, ngày càng trở nên bền vững trong đời sống xã hội.
Nói đến chức năng giáo dục của pháp luật là nói đến tính hướng thiện của pháp luật để qua đó, tác động tới con người và xã hội, giáo hóa con người và xã hội. Con người sinh ra và lớn lên phải tiếp nhận sự tác động, ảnh hưởng của môi trường xã hội là nhà nước và pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, phong tục tập quán và các sinh hoạt tinh thần khác; đồng thời cũng chịu sự tác động của quá trình giáo dục. Trong môi trường xã hội luôn có sự điều chỉnh của pháp luật; toàn bộ các hành vi, hoạt động xã hội của con người đều thể hiện ra qua các tình huống ứng xử. Ở đó, con người tiếp xúc với nhau, tác động đến nhau, trao đổi với nhau, yêu cầu và tiếp nhận ở nhau một điều gì đó trong khuôn khổ luật định. Pháp lý với các yếu tố chân - thiện - mỹ đóng vai trò hướng dẫn các thành viên xã hội lựa chọn cách ứng xử để tránh xung đột với các cá nhân khác, để mỗi người tự giải quyết vấn đề của mình, khi lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân bị xâm hại mà không vi phạm pháp luật. Các cách ứng xử với thiên nhiên, với xã hội theo quy định của pháp luật được chọn lọc, được kiểm nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu ứng xử, thẩm thấu vào ý thức của mỗi người và được biểu hiện ra ở tư tưởng, quan điểm và trở thành các giá trị đạo đức mới, tiến bộ, hình thành chuẩn mực đạo đức của con người, của xã hội.
Không chỉ thế, một nền pháp lý đúng đắn, chặt chẽ, phù hợp với cơ chế vận hành của xã hội, đáp ứng các mục tiêu tiến bộ của xã hội và được xây dựng trên nền tảng đạo đức, một mặt, góp phần bổ sung, hỗ trợ cho đạo đức, xây dựng nên những giá trị đạo đức mới; mặt khác , đảm bảo cho các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức tiến bộ trở nên phổ biến trong toàn xã hội. Pháp luật chính là sự thừa nhận một cách chính thức của nhà nước đối với đạo đức; đồng thời, là công cụ để nhà nước tạo dựng, phổ biến những giá trị đạo đức mới, tiến bộ. Khi pháp luật phù hợp với đời sống xã hội hiện thực, phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của các thành viên trong xã hội sẽ được cộng đồng thừa nhận và được thực hiện nghiêm chỉnh, tự nguyện, tự giác, tích cực với niềm tin nội tâm. Trong trường hợp này, pháp luật đã mang tính đạo đức, các quan điểm, quan niệm về pháp luật vì thế cũng trở thành các quan niệm, tư tưởng đạo đức. Khi đó, cộng đồng đánh giá một con người không chỉ dựa trên các tiêu chí đạo đức, mà còn dựa trên thái độ, ý thức của họ đối với pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của họ. Một người không được đánh giá là người hoàn hảo từ góc nhìn của đạo đức, nếu người đó có các hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, có thể nói, trong những trường hợp này, pháp luật đã định hướng và góp phần hình thành những quan niệm, quan điểm đạo đức mới. Một cách chung nhất, theo tiến trình phát triển của xã hội, các giá trị đạo đức mới, tiến bộ và phù hợp với hiện thực xã hội tiếp tục được tôn trọng, bảo vệ và phát huy bằng các biện pháp nhà nước. Khi những hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội xảy ra, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Vì thế, đạo đức có thể được tôn trọng, được thực hiện nghiêm chỉnh và phát huy được tính tích cực của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, nhiều quan niệm, quan điểm đạo đức mới đang hình thành và rất cần được xã hội cổ vũ và thừa nhận bằng những quy phạm pháp luật. Với việc thừa nhận, khuyến khích các hành vi thể hiện những quan niệm, quan điểm đạo đức mới, pháp luật góp phần khẳng định một cách chính thức những quan niệm, quan điểm đạo đức đó.
Việc pháp luật ghi nhận, củng cố, bảo vệ những quan niệm, quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức và bồi đắp các giá trị đạo đức mới có thể diễn ra theo hai cách: Hoặc là ghi nhận trực tiếp, nâng tầm và thể chế hóa thành pháp luật; hoặc là ghi nhận gián tiếp thông qua pháp luật bằng việc ban hành những quy định cụ thể nhằm nghiêm cấm các hành vi trái với đạo đức xã hội. Với kỹ thuật lập pháp này, các quan điểm, quan niệm, tư tưởng đạo đức được nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện trên thực tế; đồng thời, thông qua hoạt động chấp hành pháp luật trên thực tế, nhà nước xây dựng nên những chuẩn mực đạo đức mới mà pháp luật hướng tới.
Ba là, pháp luật giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị loại trừ những quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu, không còn phù hợp với những lợi ích chung của cộng đồng xã hội.
Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cùng với việc ghi nhận, củng cố, bảo vệ các giá trị đạo đức tiến bộ, pháp luật còn giữ vai trò quan trọng trong việc loại trừ những quan điểm, tư tưởng đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ ra khỏi đời sống xã hội, góp phần bảo vệ đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị. Bản thân sự hình thành những quan niệm, quan điểm đạo đức mới cũng đã thể hiện vai trò của pháp luật trong việc loại trừ những quan điểm, quan niệm đạo đức lạc hậu, lỗi thời, phản tiến bộ. Để loại bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu, lỗi thời, phản tiến bộ, cần cấm chỉ và trừng trị nghiêm các hành vi theo đạo đức này; đồng thời, khuyến khích, thậm chí bắt buộc tất cả mọi người đều phải thực hiện những hành vi theo quan điểm đạo đức mới. Bằng cách đó, pháp luật góp phần khẳng định quan điểm đạo đức mới, tạo cơ sở cho nó tồn tại, phát triển một cách hợp pháp, lâu bền; đồng thời, loại trừ những quan điểm đạo đức phản tiến bộ.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có tính bảo thủ tương đối. Nó ăn sâu bám rễ trong tâm lý của mỗi người dân, trở thành thói quen ứng xử được lặp đi, lặp lại nhiều lần trong từng thành viên của cộng đồng cũng như cả cộng đồng xã hội. Có những quan niệm, quy tắc đạo đức đã từng tồn tại hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm; do vậy, không đơn giản mà trong một sớm một chiều, người dân nói chung, cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng có thể từ bỏ nó, thay đổi nó, mặc dù điều kiện thực tế cho sự tồn tại của nó đã không còn. Trong trường hợp này, pháp luật là phương tiện hữu hiệu để loại bỏ chúng bằng các quy định cụ thể nhằm cấm thực hiện những hành vi theo các quan niệm, quan điểm đạo đức lạc hậu. Pháp luật quy định các biện pháp tuyên truyền, vận động các chủ thể trong xã hội không thực hiện các hành vi theo các quan niệm, quan điểm đạo đức cũ, quy định các biện pháp, chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các chủ thể thực hiện những hành vi theo quan niệm, quan điểm đạo đức này. Đồng thời, pháp luật khuyến khích, kể cả bắt buộc các chủ thể trong xã hội phải thực hiện những hành vi theo quan điểm đạo đức mới, thậm chí có trường hợp “trái ngược” với quan điểm đạo đức cũ. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng pháp luật này, cần phải tuân thủ quan điểm phủ định biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin để có sự kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, tránh tư tưởng cực đoan, phủ định sạch trơn quá khứ.
Bốn là, pháp luật góp phần ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp đạo đức, ngăn chặn việc hình thành những quan niệm, quan điểm đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị.
Khi tình trạng thoái hóa, xuống cấp đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ngày càng trở thành phổ biến, khi các giá trị đạo đức truyền thống không được nhận thức đúng mức, công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức trong gia đình, nhà trường bị coi nhẹ; khi những quan niệm, quan điểm đạo đức ngoại lai trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, trái với các giá trị đạo đức truyền thống có điều kiện ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan niệm sống, lối sống của người dân nói chung, của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng đã làm cho các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc dễ bị mai một, thậm chí bị hạ thấp. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, sự mở cửa thông thương dẫn đến du nhập ồ ạt các luồng văn hóa Đông - Tây, sự bành trướng, mở rộng địa bàn hoạt động của các tổ chức tôn giáo đã đẩy đạo đức xã hội đứng trước những khó khăn, thử thách... Trong những trường hợp này, pháp luật trở thành là công cụ hữu hiệu để loại trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại của đạo đức. Bằng việc ghi nhận thành pháp luật các quan niệm, quan điểm đạo đức, nhà nước bảo đảm cho các quan niệm, quan điểm đạo đức đó được thực hiện nghiêm minh trên thực tế. Đặc biệt, bằng việc xử lý nghiêm minh những kẻ có hành vi đi ngược với các giá trị đạo đức xã hội, trừng trị nghiêm khắc những kẻ có hành vi phi nhân tính, pháp luật góp phần bảo vệ và giữ gìn các giá trị đạo đức của xã hội, của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị, ngăn chặn sự tha hóa, xuống cấp đạo đức của đội ngũ này.
Pháp luật cũng đóng góp vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự hình thành những quan niệm, hành vi đạo đức trái với thuần phong mỹ tục, trái với các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiến bộ xã hội. Khi trong đời sống xã hội xuất hiện và có chiều hướng phát triển một cách phổ biến những hành vi trái với thuần phong mỹ tục, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc thì các nhà làm luật phải lập tức đặt ra các quy định cụ thể để ngăn chặn sự phát triển của nó, hạn chế điều kiện lan rộng và dần loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội. Qua đó, những quan niệm, quan điểm đạo đức sai lầm, lệch lạc, đi ngược thuần phong mỹ tục, phản lại các giá trị đạo đức không có điều kiện để hình thành và phát triển trong đời sống xã hội nói chung, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng.