Ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp: Hướng phát triển sạch và bền vững
Cùng với định hướng chung của cả nước, những năm gần đây, ngành Nông nghiệp Quảng Ngãi đã tiếp nhận và đưa vào ứng dụng một số công nghệ sinh học (CNSH) đạt hiệu quả ở những lĩnh vực chính như chuyển gen mang tính trạng tốt vào giống cây trồng, vật nuôi nhằm tạo ra những giống có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, có khả năng chống chịu dịch bệnh hoặc tạo ra các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Trong nghiên cứu lai tạo giống lúa, phải kể đến ứng dụng công nghệ khử đựt bao phấn. Ông Đỗ Đức Sáu, Phó Giám đốc Trung tâm Giống Cây trồng - Vật nuôi Quảng Ngãi, trưởng Trạm giống cây trồng Đức Hiệp cho biết: Quy trình công nghệ này rất đơn giản, chỉ tiến hành loại bỏ bao phấn của giống lúa có tính trạng kém (có thể là năng suất thấp, kháng sâu bệnh kém, chất lượng gạo không cao,…) và thay thế bằng bao phấn của giống khác theo ý đồ của mình. Quá trình thực hiện công nghệ này tốn kém không nhiều nhưng hiệu quả mang lại rất cao. Trong hai, ba năm trở lại đây đơn vị đã tiến hành lai tạo nhiều bộ giống lúa cho năng suất, chất lượng cao, kháng sâu bệnh với mức chi phí đầu tư thấp để đưa vào sản xuất đại trà. Chẳng hạn như Trung tâm đã lấy phấn của dòng lúa Hương Cốm (có chất lượng gạo ngon) thay thế cho phấn của giống lúa 13/2 (cho năng suất cao nhưng chất lượng gạo thấp), hay phấn của Hương Cốm thay thế cho phấn của giống IR72 (kháng sâu bệnh tốt nhưng chất lượng gạo thấp),… Công nghệ này đảm bảo phát huy hết những ưu thế của các loại giống lúa, hạn chế các tác động kỹ thuật khác khi sản xuất lúa và có tính ổn định cao mà không sợ bị lạc hậu. Đây là hướng phát triển bền vững cho đơn vị, ông Sáu khẳng định thêm.

Cũng liên quan đến sản xuất lúa, những năm gần đây bà con nông dân đã sử dụng các loại phân vi sinh để bón cho lúa rất hiệu quả. Phân vi sinh giúp tăng độ phì cho đất, tăng khả năng sinh trưởng, phát triển, chống chịu sâu, bệnh cho cây lúa. Hiện nay tại Quảng Ngãi cũng đã có nhà máy sản xuất loại phân này để cung cấp cho nhu cầu của bà con nông dân trên địa bàn tỉnh. Sự có mặt của phân vi sinh giúp hạn chế việc lạm dụng sử dụng phân hóa học, góp phần cải thiện môi trường, tăng phì nhiêu cho đất, ổn định cho sản xuất. Trong lĩnh vực trồng trọt, còn ứng dụng CNSH trong các kỹ thuật sản xuất cây ăn quả như chiết, ghép, giâm cành. Nhờ đó hiện nay tại Quảng Ngãi, nhất là huyện Nghĩa Hành đã có nhiều giống cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như bưởi, chôm chôm, măng cụt, mít, xoài,… Đặc biệt, Quảng Ngãi đã ứng dụng rất thành công công nghệ giâm hom cây keo trong sản xuất cây giống phục vụ cho nhu cầu trồng rừng, phát triển cây nguyên liệu giấy trên địa bàn tỉnh. Chỉ tính riêng Trung tâm Giống Cây trồng - Vật nuôi Quảng Ngãi hàng năm đã tạo ra trên dưới 1 triệu giống cây lai giâm hom từ công nghệ này. Giâm hom là một công nghệ rất đơn giản nhưng hiệu quả cao. Khác với kỹ thuật truyền thống khi nhân giống cần phải lựa chọn những cây bố mẹ tốt nhất để tạo ra hạt giống. Công nghệ giâm hom đơn giản và khoa học hơn nhiều, quy trình của nó là sản xuất cây giống từ những cây mẹ nào tốt nhất. Công nghệ này hiệu quả ở chỗ cây con luôn duy trì được tính trạng tốt của cây mẹ. Tức là cây mẹ thế nào thì cây con thế ấy. Lợi ích của ứng dụng công nghệ này mang lại cho sản xuất cây giống lâm nghiệp là cải thiện chất lượng cây giống, hạn chế thoái hóa giống; tăng độ đồng đều cho cây giống; rút ngắn chu kỳ kinh doanh nhờ cây giống sạch bệnh, khỏe mạnh nên phát triển nhanh (trong cùng điều kiện chăm sóc, đất đai, cây keo lai giâm hom cho thu hoạch chỉ sau 4 năm trồng, còn keo lai hạt thì phải mất 7 năm) và hiệu quả sản xuất tăng lên đáng kể.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, các kết quả nghiên cứu đã lựa chọn được môi trường bảo quản tinh dịch dài ngày, cải tiến được các quy trình công nghệ tạo phôi, cấy truyền phôi, đông lạnh phôi lợn và bò trong ống nghiệm. Việc sử dụng tinh nhân tạo giúp bò trưởng thành tăng từ 180kg/con lên 250-300kg/con, tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần. Nông dân ở nhiều địa phương còn ứng dụng CNSH trong ủ, chế biến thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm để tận dụng các phế phẩm nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào. Ứng dụng công nghệ này, Quảng Ngãi đã triển khai thành công dự án Hỗ trợ kỹ thuật phát triển đàn bò lai tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2007 - 2010. Theo kết quả tính toán sơ bộ, dự án đã làm lợi cho nông dân trên 80 tỷ đồng. Số tiền trên tương đương với giá trị của 40.753 bê lai con. Đây là số bê con sinh ra và được nuôi sống từ sự hỗ trợ của Dự án từ năm 2007 - 2010 trên địa bàn 14 huyện, thành phố. Dự án đã thúc đẩy phong trào chăn nuôi bò nói chung, bò lai nói riêng trên địa bàn tỉnh phát triển. Tỷ lệ bò lai của Quảng Ngãi hiện nay đạt trên 45% so với tổng đàn. Rõ ràng việc ứng dụng công nghệ này đã tạo sự ổn định và bền vững cho hoạt động chăn nuôi của người nông dân trong thời buổi hội nhập kinh tế. Thành công của việc ứng dụng CNSH trong chăn nuôi ở Quảng Ngãi không thể không kể đến chương trình khí sinh học trong ngành chăn nuôi. Sử dụng hầm khí biogas mang lại hiệu quả rất lớn, ngoài việc xử lý triệt để chất thải chăn nuôi góp phần bảo vệ môi trường, tạo khí đốt phục vụ sinh hoạt, các chất bã từ hầm khí còn dùng làm phân bón cho cây trồng rất tốt. Nhờ hiệu quả thiết thực của công nghệ này mà từ năm 2007 đến nay toàn tỉnh đã xây dựng trên 2.000 công trình hầm khí biogas.
Bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi, những năm gần đây ngành nông nghiệp Quảng Ngãi bước đầu cũng đã ứng dụng thành công CNSH trong nuôi trồng thủy chế. Đó là việc sử dụng các sản phẩm sinh học để điều hòa và kiểm soát hệ vi sinh vật trong ao, cạnh tranh và chiếm chỗ các vi sinh vật gây bệnh, gia tăng sự phân hủy các hợp chất hữu cơ, cải thiện môi trường sinh thái, củng cố hệ miễn dịch của thủy sản nuôi. Sử dụng thường xuyên các sản phẩm men vi sinh có thể kịp thời ngăn chặn sự bùng phát dịch bệnh và tốc độ lây nhiễm. Ông Nguyễn Ngọc Tài, trưởng phòng kỹ thuật thủy sản Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quảng Ngãi khẳng định: Đây là công nghệ mang lại hiệu quả rõ rệt, vấn đề hiện nay là chưa kiểm soát được chất lượng các men vi sinh bán trên thị trường, nếu chất lượng men vi sinh được đảm bảo thì nó có thể thay thế dần các hóa chất và chất kháng sinh như hiện nay, góp phần tạo sự ổn định cho nuôi trồng thủy sản của tỉnh nhà phát triển.
Từ những thành công trên cho thấy ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp là một xu thế tất yếu và là hướng phát triển sạch và bền vững. Trong thời gian đến Quảng Ngãi cần đẩy mạnh công tác ứng dụng CNSH, tập trung vào việc chọn tạo, nhân giống cây trồng, vật nuôi, giống thuỷ sản cho năng suất, chất lượng cao; phòng, trừ dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản; ứng dụng các quy trình công nghệ trong sản xuất, bảo quản, chế biến sản phẩm nông nghiệp; phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao..../.








