Từ thời tiền sử các triều vua Việt đã nhìn ra biển Đông
Từ năm 1993, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết về biển - Nghị quyết 03-NQ/TW "Trở thành một nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam ". Từ đó đến nay đã trải qua 14 năm, hôm nay nhiều Bộ, ngành đang xây dựng chiến lược biển cho ngành mình. Chiến lược phát triển kinh tế biển, ngoại giao về biển, an ninh quốc phòng, cứu hộ trên biển, đề án tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên môi trường biển, nghề cá và chiến lược phát triển khoa học công nghệ biển. Còn nhiều chiến lược khác về công nghiệp, du lịch liên quan đến biển có lẽ đang tiếp tục được hình thành.
Biển Việt Nam qua các triều đại tiền sử
Đất Việt trải qua hơn ngàn năm Bắc thuộc, sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 các quốc gia được độc lập đã được dựng lên: Đại Cồ Việt, Đại Việt và Việt Nam. Từ thế kỷ XI đến XIX, sau quá trình nam tiến, nước Đại Việt đã được mở rộng thành một quốc gia thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau với 3260 km đường bờ biển cùng với hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ và các quần đảo.
Vua Ngô Quyền (939-944)là người làm nên chiến thắng đầu tiên ở cửa Bạch Đằng với chiến lược cắm cọc gỗ đầu bọc sắt nhọn lợi dụng con nước triều lên xuống để ngăn giữ chiến thuyền giặc khi triều xuống. Vịnh Bắc Bộ đã đi vào lịch sử với chiến lược đầu tiên bảo vệ Tổ quốc của vua Ngô Quyền.
Vua Đinh Tiên Hoàng (968-980): Sử sách còn ghi lại vua Đinh Tiên Hoàng sang nhà Tống - Trung Hoa để kết bang, người con của vua Đinh Tiên Hoàng được phong làm quan trông coi về biển (Tỉnh hải quân tiết độ sứ).
Vua Lê Hoàn (980 - 1005)là vị vua thứ hai chiến thắng quân xâm lược phía Bắc tại cửa Bạch Đằng. Lại một lần nữa khẳng định công cuộc bảo vệ đất nước gắn liền với chiến lược dùng binh trên biển.
Các Triều tiền Lê, Lý với biển:Qua các thời vua Lý (XI - XII), vua Trần (XIII - XV), thời hậu Lê (XV - XVI) đã xây dựng được lực lượng hải quân tới hàng vạn người và vài trăm chiến thuyền, ghi những dấu ấn về công việc trông coi miệt biển, bờ cõi.
Vua Lý Anh Tông:Năm 1172 đã đích thân đi tuần tra các cù lao ngoài biển và sai vẽ các bản đồ ghi chép phong vật đánh dấu sự ra đời của một bản đồ biển đầu tiên do người Việt vẽ ra.
Vua Trần Thái Tôngđã cầm quân đi đánh giặc qua đường biển Móng Cái tới tận các cảng thuộc hải phận tỉnh Quảng Đông Trung Quốc. Điều này đã nói lên sự trưởng thành của lực lượng hải quân, thiện chiến bằng đường biển của thời ấy.
Nguyễn Trãicó tờ trình vua Lê Thái Tông (1435) về các vùng biển có tên gọi là Biển Đông. Sử sách còn ghi lại được khá nhiều các bộ luật về biển chỉ dẫn công việc trông coi và thi hành quyền lực của nhà vua về buôn bán và ra vào bằng đường biển.
Thời hậu Lê (1427 - 1527)là thời kỳ gắn liền với chính sách bế quan toả cảng với nhiều điều lệ bất cập. Tuy nhiên, dấu ấn còn để lại cho đến nay là sự ra đời của hệ thống đê biển ở Sơn Nam - Ninh Bình từ thời Lê Hồng Sơn (1471 - 1497) mà cư dân ở đây vẫn gọi là đê Hồng Đức. Cùng với sự ra đời hệ thống đê biển là chính sách khai khẩn vùng đất ven biển, phát triển thủy lợi và nghề nông từ đó gắn liền với tên tuổi vua Hồng Đức.
Thời nhà Mạc (1527 - 1592):Các cụm dân cư biển đã được mở mang, đông đúc bởi công việc buôn bán bằng đường biển đã phát triển, cảnh sống trên bến dưới thuyền náo nức từ đây. Dọc theo bờ biển đã xuất hiện khá nhiều đền thờ thờ các thương thuyền địa phương. Đạo Thiên Chúa giáo từ nước ngoài bằng đường biển đi cùng các giáo sĩ phương Tây truyền bá tới đất Việt từ đây.
Thời chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627 - 1672): Thời kỳ này gắn liền với sự ra đời của các cảng biển miền Trung và Nam Bộ, đánh dấu bằng sự phồn vinh của cảng Hội An, cảng lớn nhất của đàng trong Đại Việt. Cũng chính là qua cửa cảng Hội An các giáo sĩ phương Tây cùng với dân cư địa phương đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ, tiếng Việt La tinh hoá.
Thời Tây Sơn khởi nghĩa: Sau đại thắng quân Mãn Thanh ở Bắc (1789) bắt đầu thống nhất đất nước đã có một số chính sách cởi mở khai khẩn đất đai ven biển. Tuy nhiên, vào thời kỳ này nhiều cảng lớn từ Bắc đến Nam đã bị tàn phá nặng nề, nhiều thương nhân kể cả người Việt lẫn người Hoa thông thạo nghề buôn cũng bị đốt phá dẫn đến tình trạng ngoại thương biển bế tắc.
Triều đại Gia Long và Minh Mạng:Với sự trợ giúp của người nước ngoài, Nguyễn Ánh đã mở mang cảng Bến Nghé (Sài Gòn, Chợ Lớn) xuất khẩu gạo và đóng nhiều thuyền lớn theo kỹ thuật phương Tây. Vào thời Minh Mạng hai huyện biển mới là Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) ra đời cùng với các chính sách tuần tra biển có quy củ, các đội tuần tra Hồng Sa, Trường Sa, Bắc Hải được giao nhiệm vụ khai thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nửa sau thế kỷ XIX lịch sử Việt Nam bước vào thời kỳ quân chủ suy tàn, đất nước rơi vào tình trạng nô lệ dưới chế độ thực dân Pháp đô hộ.
Cái nhìn về biển đã hoà nhập chung trong nền khoa học hải dương học tân tiến, nhiều thông tin điều tra về biển đã được biết đến trong nước, nhiều tài liệu còn ghi lại được về biển Đông và biển Việt Nam trong các ấn phẩm quốc tế.
Từ cái nhìn về biển tiến tới những công cuộc điều tra cơ bản, các nội dung nghiên cứu ứng dụng ở Việt Nam giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám đến nay đã được hệ thống các chương trình biển Nhà nước tổng kết, đánh giá khá đầy đủ.
Cái nhìn về biển qua các triều đại vua Việt đã hình thành ra tên gọi Biển Đông với những ý tưởng khai thác rất đơn giản phù hợp với trình độ kỹ thuật thời bấy giờ. Biển Đông cùng với dân tộc Việt hình thành ra nền văn hoá biển rất đặc thù tôn vinh cho nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Hiểu thêm về nền văn hóa biển để có thêm một cái nhìn hướng tới một chiến lược biển có sức sống thực sự trong sự tôn vinh của dân tộc Việt Nam .
Văn hoá biển từ cái nhìn hội nhập qua biển
Qua biển con đường thương mại đã được hình thành nối liền các khu vực văn hóa với nhau, Biển Đông cầu nối giữa hai đại dương Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương và cũng chính nơi đây Biển Đông hội tụ của những nền văn minh trên thế giới.
Trước hết phải nói đến nền văn minh sông Hồng là nền tảng của người Việt Âu Lạc với thời kỳ các vua Hùng. Dấu ấn đặc sắc nhất của nền văn minh này là trống đồng Đông Sơn gắn liền với các tập tục của các vùng cư dân miền biển.
Nền văn hoá Sa Huỳnh gắn liền với địa danh của một cửa biển miền Trung thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Dấu ấn của nền văn hoá Sa Huỳnh lan toả trong nhiều vùng khu vực Đông Nam Á.
Trong khu vực đồng bằng Nam Bộ nổi trộn với nền văn hoá Oc Eo hình thành từ trước và sau công nguyên trên các lưu vực sông Đồng Nai - Mekông.
Ba nền văn minh trên đây nổi trội đặc trưng cho ba miền có quan hệ mật thiết với biển, đã giao lưu với nhau và thế giới bên ngoài như Ấn Độ, Trung Hoa cổ đại, Địa Trung Hải thời La Mã cổ.
Dọc ven biển Việt Nam còn rất nhiều khu vực văn hóa lâu đời khác đặc trưng cho cả một vùng ven biển với những doi cát, vũng vịnh… Có thể kể ra đây như nền văn hoá Hoa Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hoá), những gì tìm thấy trên các hoa văn, đồ vật để lại cho thấy văn hóa biển Hoa Lộc rất đặc trưng cho thời kỳ dựng nước, đóng góp nổi trội cho nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ.
Văn hoá biển Quỳnh Văn (Nghệ An) đặc trưng cho cả một dải ven biển Bắc Trung Bộ với văn hoá cồn sò khai thác nhuyễn thể là chính, các di vật đồ gồm chỉ mới là thô sơ. Quá trình phát triển của nền văn hóa này là luôn luôn phải đối mặt với biển có nhiều nét tương đồng với nền văn hoá Sa Huỳnh.
Văn hoá Bàu Tró được xác định đặc trưng cho dải ven biển Bắc Trung Bộ chủ yếu ở vùng Quảng Bình - Thừa Thiên Huế, nền văn hoá này đặc trưng cho cuối thời kỳ đồ đá mở đầu cho thời kim khí.
Văn hoá Bầu Dũ đặc trưng cho dài miền Trung có nhiều vùng vịnh, cồn cát cũng là một minh chứng đậm nét cho văn hoá Sa Huỳnh.
Dấu tích cuộc sống của các vùng dân cư Việt Nam thời tiền sử còn để lại ở nhiều vùng ven biển, đảo. Các phát hiện văn hóa khảo cổ đã chứng minh cho sự tồn tại các thời kỳ văn hoá mà nổi bật là văn hóa Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai.
Biển Việt Nam là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta. Chúng ta tự hào trên dải đất Việt đứng bên bờ Tây Thái Bình Dương, từ thời tiền sử các triều vua Việt đã nhìn ra biển, gắn bó với biển trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Sự bí hiểm, hùng tráng của biển mãi nằm trong tâm thức người Việt chúng ta qua những huyền thoại về biển vĩ đại. Ngày nay, tuyến hàng hải quốc tế qua biển Đông rất gần với các vùng lãnh hải Việt Nam với lưu lượng hơn 1500 tàu qua lại mỗi ngày. Hệ thống cảng biển Việt Nam đang được mở rộng. Trong xu thế hội nhập, hành lang Đông - Tây Á trên đường bộ nối liền với các cửa biển biển Đông đang được các nhà chiến lược các nước Tây Á đề cập đến. Vị thế biển Việt Nam và biển Đông trong xu thế phát triển này chắc chắn sẽ được nâng lên tầm cao mới.