Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 17/11/2008 15:52 (GMT+7)

Trốn tránh chuẩn mực quốc tế là tạo cơ sở cho tiêu cực trong nghiên cứu khoa học

Nếu họ làm ứng dụng thực sự phục vụ thực tế thì họ phải thu được kinh phí trực tiếp từ các cơ sở sản xuất và thị trường, và nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ về mặt hành chính và pháp lý, kể cả có thể xét cho vay vốn ưu đãi. Còn đã là thực hiện đề tài nghiên cúu, nghĩa là hưởng kinh phí bao cấp từ nhà nước, thì họ phải chịu các đòi hỏi nghiêm ngặt và khách quan về chuẩn mực khoa học cho các kết quả nhận được (không phải chỉ là một báo cáo tổng kết để xếp tủ, hay áp dụng hình thức, không hiệu quả), và qua đó giúp nâng cao được cái nền của khoa học & công nghệ nước nhà.

Công bố bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành được phản biện khách quan bởi các chuyên gia ẩn danh sẽ buộc nhà khoa học phải cập nhập học hỏi được các thành tựu tiên tiến trên thế giới trong lĩnh vực chuyên môn của mình, giúp kiểm định được phương pháp giải quyết vấn đề của nhà khoa học là đúng đắn, và khẳng định được trình độ và đóng góp của nhà khoa học. Mọi lĩnh vực chuyên môn từ lý thuyết đến ứng dụng đều có các tạp chí của mình, và các tạp chí thuộc các lĩnh vực ứng dụng thậm chí còn nhiều áp đảo so với các tạp chí có thiên hướng lý thuyết.

Trên trường quốc tế, trình độ và năng lực của các nhà khoa học và cả các quốc gia được đánh giá trước tiên qua số bài báo công bố trên các tạp chí khoa học chuẩn mực quốc tế, và số bằng phát minh, sáng chế. Theo Viện thông tin khoa học (Institute for Scientific Information – ISI), có trụ sở tại Mỹ, các nhà khoa học các ngành của VN, từ Y, Sinh, Nông nghiệp tới Toán, Lý, Hóa, và các lĩnh vực Kỹ thuật, Kinh tế, đã công bố trong 10 năm qua (tính tới tháng 2/2007) tổng cộng 4 ngàn bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chuẩn mực. Con số đó chỉ bằng 1/3 con số tương ứng của Malaysia (trong khi số dân nước ta bằng 4 lần số dân Malaysia), 1/4.5 số bài của Thái lan, dưới 1/11 của quốc đảo Singapore, 1/45 của Hàn quốc, 1/108 của Trung quốc (số dân VN bằng 1/16 TQ), và 1/700 của Mỹ.

Cụ thể hơn, gần 50% số bài của Thái Lan là do nội lực (tự họ làm được), trong khi tỷ lệ nội lực của chúng ta chỉ là 20%, còn lại là do hợp tác với quốc tế. Điều đó cho thấy các nhà khoa học của chúng ta vẫn còn phải dựa nhiều vào hỗ trợ quốc tế. Điều đáng lo là mặc dù số bài mà chúng ta tham gia có tăng 10% hằng năm, số bài nội lực vẫn chỉ dừng ở số 80 bài/năm trong suốt 10 năm qua, bất kể kinh phí nghiên cứu khoa học từ ngân sách quốc gia của chúng ta được tăng mạnh trong thời gian này. Các công bố quốc tế từ nội lực của cả khoa học VN chỉ bằng 1/4 con số tương ứng của riêng ĐH Chulalongkorn của Thái Lan, một ĐH có kích cỡ tương đương ĐH quốc gia HN.
Con số chi tiết về số công bố quốc tế các ngành của Việt Nam 10 năm qua: 1.Y học lâm sàng (656 bài), 2. Vật lý (640), 3. Động thực vật học (531), 4. Toán (424), 5. Kỹ thuật (277), 6. Hóa (272), 7. Nông nghiệp (174), 8. Địa chất (158), 9. Môi trường (150), 10. KHXH (145), …,15 Kinh tế (29), …

Có một điếm sáng: do những lý do lịch sử, các ngành Toán và Vật lý của chúng ta đã tập hợp được lực lượng mạnh trong quá khứ, có được truyền thống khá tốt, và là hai ngành duy nhất đã có được số công bố quốc tế sánh ngang và vượt các nước bạn Đông Nam Á. Tuy nhiên khi xét về tổng thể, các bài báo quốc tế lại đến chủ yếu từ các lĩnh vực khoa học ứng dụng mà ta thua xa bạn.
Động lực nghiên cứu chất lượng để công bố quốc tế ở VN hiện nay mới chỉ xuất phát từ 2 nguồn bên ngoài: cơ hội được mời ra nước ngoài cộng tác (như ở các ngành Toán và Vật lý lý thuyết), và từ các đề tài nghiên cứu ứng dụng trong nước được quốc tế tài trợ và có sự tham gia của chuyên gia nước ngoài (như trong các lĩnh vực Y, Sinh và Môi trường). Động lực công bố quốc tế nội lực hầu như không có: từ các đề tài nghiên cứu ứng dụng kinh phí lớn cấp Bộ Ngành, cấp Nhà nuớc tới các đề tài nghiên cứu cơ bản kinh phí nhỏ hơn, trên thực tế, đều phớt lờ đòi hỏi cần có về công bố quốc tế. Điều đó dẫn tới số lượng ít ỏi các kết quả nội lực đạt chuẩn mực quốc tế như đã nói ở trên - phản ánh chất lượng kém của các đề tài nghiên cứu và hiệu quả thấp của vốn đầu tư của nhà nước cho khoa học công nghệ..

Thiếu ràng buộc về chất lượng nghiên cứu dẫn tới lỏng lẻo trong quản lý và tiêu cực trong việc xét và phân kinh phí các đề tài, đạo đức thấp của cộng đồng khoa học, làm giả ăn thật tràn lan. Kể cả các nhà khoa học dã được đào tạo tốt ở nước ngòai trở về cũng bị tàn lụi dần theo thời gian trong một môi trường thiếu lành mạnh như vậy.

Công nghệ không phải là thứ dễ định lượng đo đếm được. Nhưng chính thông qua lao động của các chuyên gia với các kết quả nghiên cứu theo chuẩn mực quốc tế (các bài báo và các sáng chế), nhất là của các lĩnh vực ứng dụng, công nghệ sẽ dần được hình thành. Các quốc gia có nhiều kết quả bài báo công bố quốc tế cũng là các quốc gia có nhiều phát minh, sáng chế và nền công nghệ phát triển tương ứng.

Chính bởi tầm quan trọng của các bài báo khoa học chuẩn mực quốc tế đối với nền khoa học công nghệ của một quốc gia, ngoài thông lệ chung quốc tế sử dụng các kết quả đó như là cơ sở cho xét duyệt, đánh giá các đề tài nghiên cứu và thăng tiến nghề nghiệp của các nhà khoa học, nhiều nước đang phát triển, từ Hàn quốc, Pakixtan tới TQ,  còn có thêm chế độ thưởng tiền mặt trực tiếp cho các bài báo công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín. Luận án TS từ Hàn quốc tới Phillipnes đều đòi hỏi phải có các bài báo đăng tạp chí quốc tế ISI. Các Viện nghiên cứu của Viện HLKH Trung quốc khẳng định năng lực và thành tích nghiên cứu của họ qua số bài báo quốc tế đạt chuẩn cao nhất SCI  và số bằng phát minh, sáng chế.

Tại sao lực lượng khoa học công nghệ của chúng ta tuy khá đông về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng, mặc dù từ mấy chục năm nay nhà nước vẫn luôn khẳng định “khoa học kỹ thuật là then chốt”, và kể cả trong những năm chiến tranh gian khổ vẫn tuyển chọn nhiều học sinh ưu tú gửi đi đào tạo ở các nước tiên tiến nhằm xây dựng tiềm lực cho chúng ta ngày hôm nay. Đừng nhắc mãi tới các lý do khách quan để mà nhìn thấy nguyên nhân chủ quan: chính sách khoa học của chúng ta có nhiều bất cập và lạc hậu. Mặt khác, tầm nhìn, ý thức nghề nghiệp, ý chí phán đấu vươn lên độc lập tự cường, tự đánh giá mình một cách khách quan, của các nhà khoa học VN, trước hết là những người chiếm giữ các vị thế được coi là “đầu ngành”, nhìn chung là yếu.

Chuẩn mực TS là gì nếu như ứng viên không có nổi lấy một bài báo đăng tạp chí quốc tế ? Một GS có xứng danh hay không khi không thể là tác giả chính (từ nội lực, sau khi đã bảo vệ luận án TS) của dù chỉ một bài báo quốc tế chuẩn mực tối thiểu ISI ? Khoa học VN làm sao mà tiến bộ được khi phần lớn các thành viên của một Hội đồng ngành NCCB, Hội đồng chức danh GS Ngành, Ban biên tạp tạp chí ngành,… không có nổi lấy một bài báo khoa học đăng tạp chí chuẩn mực SCI trong 5 năm, và thậm chí 10 năm gần đây nhất.

Cũng dễ hiểu vì sao nhiều chức sắc đầu ngành của chúng ta lại dị ứng và phớt lờ chuẩn mực quốc tế. Mập mờ là điều họ cố gắng duy trì. Vì đề cao chất lượng nghiên cứu khoa học sẽ làm ảnh hưởng tới vị thế “đầu ngành” và các đặc quyền đặc lợi của họ, trong khi tư duy văn hóa phong kiến của họ là rất nặng nề.

Với tư duy lạc hậu và tiến độ làm khoa học như con số cụ thể đã nói ở trên, phải nửa thế kỷ nữa chúng ta mới tới được trình độ công bố quốc tế hiện nay của các láng giềng Thái Lan và Malaysia, và đành lòng quên đi ước mơ có ngày VN sánh vai được với các cường quốc Năm châu như cố Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn?

Để đổi mới khoa học như chúng ta đã thành công trong đổi mới nền kinh tế, việc tiên quyết phải làm là  thiết lập môi trường khoa học lành mạnh dựa trên các chuẩn mực quốc tế đã được xác lập thông qua các bài báo khoa học quốc tế ISI, các phát minh, sáng chế, sản phẩm mới hữu dụng - đóng vai trò như tiêu chuẩn thị trường trong kinh tế. Mọi chương trình khoa học, các đề tài nghiên cứu, các bằng cấp, chức danh, và Hội đồng khoa học ngành, đều phải được xây dựng trên cái nền này.

------------

* Viện Cơ học, Hà Nội.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.