Trang phục phụ nữ xưa
Áo dài:
![]() |
Phụ nữ Bắc kỳ đầu thế kỷ XX chiếc áo tứ thân đã được thay thế bằng chiếc áo “kinh” có hai váy theo kiểu Huế |
![]() |
Hai bà hoàng ở Huế với chiếc áo dài gấm xác định địa vị xã hội |
![]() |
Phụ nữ trung lưu miền Bắc |
Từ sau năm 1945, đặc biệt là sau 1975, chiếc áo dài được lên ngôi. Nó chiếm vị trí độc tôn trong các dịp lễ hội, giao dịch quốc tế, các buổi biểu diễn văn nghệ, thời trang,... Áo dài được cải tiến và mang sắc thái riêng của từng miền trong những chi tiết nhỏ để đáp ứng sở thích và yêu cầu thẩm mỹ của thời đại. Áo dài không chỉ tôn vinh vẻ đạp bên ngoài của người phụ nữ mà còn phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, đó là sự kín đáo, nhẹ nhàng, đằm thắm của phụ nữ Việt Nam .
Váy:
Nguồn gốc xa xưa nhất của chiếc váy là cái nơm úp cá. Ở các nước Ả Rập, nó được gọi là Djoubba, có nghĩa là linh thiêng. Người Trung Hoa dùng chiết tự gọi là xuẩn chừ, gồm hai bộ phận ghép lại với nhau: chữ Y “rách” ghép với chữ “quân”. Từ “quân” chỉ bậc nam nhi với nghĩa tôn vinh. Thời Đông Sơn, người Lạc Việt dùng váy bằng lá cây hay lông vũ xòe ra. Sau đó dùng váy mở ngắn (một mảnh vải quấn vào thân) rồi đến váy kín gồm hai mép díu lại với nhau thành hình nơm.
Một thời gian dài, người ta dùng váy lưỡi trai bảy bức bằng lĩnh hoặc sồi dài chấm gót, cạp váy thường rộng bản, khoảng 8 - 10cm với nhiều màu. Tô điểm thêm cho chiếc váy là cái thắt lưng màu mỡ gà, hồng đào hay hoa lý,... thắt so le buộc múi, buông rủ dịu dàng. Khi lao động người ta mặc váy ngắn trên đầu gối, thết liệu vải thô kệch mà bền gọi là cái “sống”. Các phụ nữ trong cung đình mặc váy rộng, có nhiều nếp với chất lượng vải lụa hạng sang và quý nên gọi là xiêm. Ngày xưa, những chiếc váy đẹp nhất, thướt tha nhất là những chiếc váy của chị em ở đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là vùng Đình Bảng, Hà Bắc.
Những năm 1954 - 1959, có váy kiểu dài quá đầu gối, may phồng và hơi khum ở phần dưới (váy chuông). Đến năm 1960, váy được may thẳng, xẻ nhỏ ở giữa thân sau, xếp ly hoặc may bó. Năm 1968, váy mini ra đời, ngắn đến đầu gối. Năm 1980, xuất hiện váy dài đến chân có cài khuy bấm... Theo thời gian, chiếc váy ngày càng được cải thiện và đi vào nhịp sống hiện đại của người Việt.
Yếm:
![]() |
Trang phục mùa hè xứ Bắc, đàn bà mặc yếm, đàn ông cởi trần |
Cái yếm xuất hiện từ xa xưa và được định hình vào thế kỷ XII đời Lý. Đến năm 1696, phụ nữ lao động thường mặc yếm cổ xây. Với phụ nữ quý tộc thì trước yếm có thêm một vài đường tết lại với nhau thành hình lưới quả trám. Đến năm 1802 trở đi, yếm là một miếng vải vuông đặt chéo lên ngực người mặc. Ở góc trên có khóet hình tròn là cổ yếm, đó là yếm cổ xây, nếu khoét chữ V gọi là yếm cổ xẻ, nếu xẻ xuống sâu nữa gọi là yếm cánh nhạn.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng sự xuất hiện của cái yếm nhằm tôn lên cái lưng ong vốn được xem là một nét đẹp của phụ nữ trong văn hóa Việt Nam . Theo quan niệm thẩm mỹ của người Việt, một cô gái đẹp phải có cái lưng thắt đáy nhỏ nhắn như con ong. Người Việt Nam xưa cho rằng những cô gái với cái lưng ong không chỉ mang một dáng hình đẹp mà còn có đầy đủ những đức hạnh của một người vợ, người mẹ.
“Đàn bà thắt đáy lưng ong,
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”.
(ca dao)
Sau khi mặc yếm, các cô gái mặc ra ngoài chiếc áo trắng không cài cúc cổ làm tôn màu yếm hoa hiên hay đỏ thắm. Khi ra ngoài mặc thêm chiếc áo dài, bên dưới mặc váy lưỡi trai bằng lĩnh hay sồi đen dài chấm gót. Lưng có dải yếm thắt màu gà, phía cạnh sườn đeo xà tích bạc, chân đi dép, đầu vấn khăn nhiễu hay nhung, trùm ngoài là chiếc khăn mỏ quạ, tóc để đuôi gà, đội chiếc nón quai thao,... Tất cả những thứ đó kết hợp với chiếc yếm làm nên vẻ đẹp duyên dáng mà kín đáo của người phụ nữ.
Áo bà ba:
Khi lao động hay trong những hoạt động bình thường, phụ nữ cũng thường mặc áo ngắn có hai túi phía trước, có thể xẻ tà hoặc bít tà. Ngoài Bắc gọi là áo cánh, trong Nam gọi là áo bà ba. Áo có đính cúc nhưng phụ nữ thường không cài cúc cho mát, vừa để hở cái yếm trắng làm duyên. Áo bà ba là sản phẩm đặc trưng của vùng Nam bộ. Phụ nữ miền Nam , các cô gái mặc áo bà ba trắng, có việc, mặc áo dài phủ lên chiếc quần lĩnh đen.
![]() |
Phụ nữ miền Bắc trong trang phục ngày hội |
Thắt lưng ban đầu có mục đích giữ cho đồ mặc dưới khỏi tuột (có thể là một sợi dây, gọi là dải rút), rồi phát sinh thêm mục đích giữ áo dài cho gọn và tôn tạo cái đẹp trên cơ thể phụ nữ. Các bà, các cô còn dùng thắt lưng bao còn gọi là ruột tượng để kiêm nhiệm thêm mục đích thứ tư là làm túi đựng đồ vật (tiền, trầu cau,...).
![]() |
Cô gái Huế đánh đàn tranh, vấn tóc trần và đeo kiềng vàng là lối trang sức của tầng lớp thượng lưu |
![]() |
Phụ nữ thượng lưu miền Nam |