Tổ chức 81 trực thuộc – mô hình xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ
>> Tổng kết 20 năm hình thành và phát triển KH&CN ngoài công lập
Với sự ra đời của Nghị định 35 và sau đó là Nghị định 81/2002/NĐ-CP, nhiều nhà khoa học làm việc tại các viện nghiên cứu công lập, các tổ chức phi chính phủ, các nhà khoa học đã nghỉ hưu… đã mạnh dạn thành lập tổ chức khoa học và công nghệ của riêng mình, khơi dậy, phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ khoa học và đã có nhiều kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Qua 20 năm hình thành và phát triển, hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập đã tập hợp được đội ngũ những nhà khoa học tâm huyết, trong đó có cả những nhà khoa học trẻ. Các tổ chức này ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, hoạt động có hiệu quả, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Các tổ chức hoạt động với cơ chế tự lo việc, tự trang trải, gặp không ít khó khăn như vốn hoạt động của các đơn vị này do các thành viên tự đóng góp để trang trải chi phí: thuê trụ sở, trả lương cho cán bộ, tự tìm kiếm hợp đồng, đối tác triển khai ứng dụng, tiến hành liên kết và hợp tác trong nước cũng như ngoài nước. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã tìm tòi, sáng tạo và cung cấp cho thị trường các sản phẩm có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống như Trung tâm Nghiên cứu và phát triển công nghệ hóa sinh đã cho ra đời những chất điều hòa sinh trưởng thực vật, thuốc bảo vệ thực vật có tác dụng tốt, không gây ảnh hưởng tới cây trồng, môi trường và có trên 30 sản phẩm thực phẩm chức năng, 5 sản phẩm thuốc đã được cấy phép lưu hành; Trung tâm Phân tích AND và công nghệ di truyền đã tập trung vào việc nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ phân tích AND hiện đại của thế giới vào thực tiễn Việt Nam, đã hoàn toàn làm chủ các công nghệ AND xác định huyết thống của thế giới và thực hiện thành công hàng nghìn trường hợp xét nghiệm AND mà không mắc một sai sót nào. Đặc biệt, Trung tâm cũng đã trực tiếp đào tạo nhiều chuyên gia và kỹ thuật viên chuyên ngành giám định AND cho các cơ quan hình sự và pháp y đầu ngành ở nước ta.
Hằng năm, các tổ chức khoa học và công nghệ đã ký kết được nhiều hợp đồng khoa học và công nghệ, đạt doanh thu nhiều tỷ đồng, góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động như Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới và môi trường luôn tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý rác thải. Hiện nay, Trung tâm đã hoàn thiện một dây chuyền công nghệ xử lý chất thải tiên tiến, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội tại Việt Nam.
Hoạt động phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, giảm thiểu kỳ thị, tệ nạn xã hội, trợ giúp những thành phần yếu thế trong xã hội… cũng là mặt mạnh của hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập. Các tổ chức này có điều kiện hơn trong việc tiếp nhận các dự án phát triển của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. Hoạt động của các tổ chức này đã góp phần thiết thực vào cải thiện đời sống, nâng cao hiểu biết, nhận thức mọi mặt của cộng đồng, từ đó, giúp thay đổi hành vi của cộng đồng cũng như giúp các nhà hoạch định chính sách trong việc đề ra những biện pháp giải quyết, hỗ trợ những vấn đề xã hội, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và công bằng xã hội. Viện nghiên cứu phát triển xã hội cùng với Dự án thành phần VUSTA – Dự án Quỹ toàn cầu phòng chống HIV/AIDS đã tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao năng lực quốc gia cải thiện các vấn đề về giới và tình dục; giảm thiểu kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật ở Việt Nam; củng cố năng lực của xã hội dân sự Việt Nam để đối phó với dịch AIDS thông qua việc tham gia sự kiện khu vực và quốc tế; nghiên cứu và vận động bình đẳng trong y tế ở Việt Nam…
20 năm hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập đã chứng tỏ sự đúng đắn của chủ trương, chính sách của Nhà nước về hình thành và phát triển các tổ chức này.
Để các tổ khoa học và công nghệ ngoài công lập tiếp tục hoạt động có hiệu quả, cần có chính sách đổi mới hơn nữa từ nhà nước, công tác quản lý của tổ chức chủ quản cũng như nỗ lực tự thân của mỗi tổ chức khoa học và công nghệ.
Mong rằng, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ để không những xây dựng chế độ, chính sách phù hợp và thiết thực với hoạt động của loại hình tổ chức này, tạo sự bình đẳng với loại hình tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước không chỉ về tính pháp lý mà còn trong thực tiễn hoạt động như tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập tiếp cận với nguồn kinh phí từ nhà nước thông qua đấu thầu đề tài, dự án; Tăng cường tuyên truyền phổ biến, nâng cao hiểu biết pháp luật về khoa học và công nghệ cho các tổ chức khoa hoc và công nghệ, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân. Từ đó nâng cao ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật, về khoa học và công nghệ; nghiên cứu xây dựng quy chế khen thưởng, tôn vinh các tổ chức khoa học và công nghệ có đóng góp thiết thực cho xã hội.








