Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 15/04/2013 22:07 (GMT+7)

Tình yêu khoa học và tổ ấm của gia đình Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn - Nonna Vladimirovich Stankevich

Vào đầu những năm 1960, tôi đang công tác ở Khoa Văn, Đại học Tổng hợp có dịp gặp nhiều cán bộ trẻ của Liên Xô sang công tác. Họ là những nhà Việt Nam học đầu tiên đến Việt Nam. Tôi nhớ có I.P.Zimonina xinh đẹp, V.S Panfilov dáng thanh tú có hàng ria đẹp, hay mặc áo ca rô và chân đi hơi khập khiễng… Và vợ chồng Nguyễn Tài Cẩn, Nonna Stankevich cũng về nước vào dịp này. Hai ông bà được phân ở ngôi nhà hai tầng bên cạnh cơ sở II của Trường Đại học Tổng hợp, đối diện với Trường Albert Saraut cũ. Nhà có vườn, kiến trúc hơi cổ nhưng đẹp mắt. Thỉnh thoảng thấy ông bà đi về và cụ già bố Giáo sư Cẩn cũng ra ở cùng. Nhà có con dâu Tây nên cũng phải điều chỉnh cách sống. Ông cụ cũng mặc cả bộ pyjama sọc đi lại nhanh nhẹn và không quên thói quen hút thuốc lào thả khói và tè cạnh bụi chuối ngoài vườn. Điều này thật không hợp khi trong nhà có một cô dâu Tây. Bà Nonna là con gái Nga thuộc gia đình nền nếp. Dáng người cao, tóc vàng cắt ngắn, vẻ dịu dàng. So với Giáo sư Cẩn thì có phần so le, ông thấp hơn một chút, ăn mặc giản dị và có phần xuềnh xoàng, nhưng ông có sức hấp dẫn của trí tuệ và ngôn luận. Ông năng động, nói năng, đối thoại linh hoạt, nhiều sáng kiến. Ngược lại bà Nonna lại lặng lẽ, có chiều sâu, thỉnh thoảng mỉm cười hoặc cảm ơn theo nghi lễ hoặc nói đôi câu pha chút giọng Nghệ. Điều này cũng dễ hiểu vì thầy giáo cận kề quê gốc ở Nghệ An. Hai ông bà sống với nhau hơn nửa thế kỷ có hai con trai là Nguyễn Tài Việt và Nguyễn Tài Nam.

 Bà Nonna là người vợ hiền, người mẹ chăm sóc con học hành đến trưởng thành. Mối tình giữa hai người nảy nở như thế nào còn là điều ít người biết đến nhưng có lẽ duyên đầu là sự cảm phục với thầy giáo Việt thông minh, “ngạc nhiên trước sự hiểu biết của ông về văn học cổ điển Trung Quốc”, rồi vốn kiến thức được giáo dục trong gia đình Nho học. Và cứ thế tình yêu khoa học có thể mở đường cho nhiều nẻo đường mới mẻ. Trong bài viết bà ít nói về chồng mà chủ yếu là về khoa học, về sự hình thành và phát triển của ngành Việt Nam học ở Nga. Tuy nhiên tình cảm cũng hé lộ đôi điều qua trang viết.

“Mùa hè đầu tiên ở nước Nga, Nguyễn Tài Cẩn thường lên nhà nghỉ cuối tuần của Bystrov ở Kavgolovo. Ở đó Nguyễn được tiếp xúc với thiên nhiên và đời sống tự nhiên nước Nga. Tôi cũng thường có mặt ở đó. Chúng tôi thường có những chuyến đi bộ dài trong rừng hay bơi thuyền qua hồ. Trong những chuyến đi ra vùng ngoại ô Petersburg nổi tiếng cũng như những lần đưa Nguyễn đến các cửa hàng sách trong thành phố, anh mau chóng trở thành khách hàng thường xuyên của các nhà sách. Trong những chuyến đi đó, lúc đầu chúng tôi trao đổi với nhau bằng cả tiếng Hán và tiếng Việt, nhưng về sau bằng tiếng Việt thường xuyên hơn và nhiều hơn” (GS Nonna Stankevich - Những năm tháng khởi đầu tuyệt vời… Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư tr.23).

Kín đáo quá, người viết không lộ nhiều nét riêng tư nhưng phải chăng chính giai đoạn này, những chuyến đi chơi trong rừng, những cuộc bơi thuyền đã tạo nên một quan hệ mới giữa hai người. Thiên nhiên thường là người đưa duyên như cách nói của Xuân Diệu trong bài “Thơ duyên”. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, gợi cảm khiến cho con người không thể vô tâm cho dù bên ngoài như có vẻ thản nhiên.

“Thuyền theo lái, gái theo chồng”. Về Việt Nam mấy năm đầu trong điều kiện đất nước hòa bình còn dễ chịu tuy có nhiều bề xa lạ. Chiến tranh bùng nổ, nhà trường sơ tán lên vùng núi Thái Nguyên vùng núi Ký Phú, Đại Từ. Bà Nonna không tạm về nước trong thời gian có chiến tranh mà lên vùng sơ tán. Thật khó hình dung hết những khó khăn của vùng quê xa lạ. Có người Nga nhận xét rằng, ở Việt Nam rét hơn ở Nga, tuy không có tuyết nhưng phải chịu rét suốt ngày, lại độ ẩm cao và có gió. Tôi không được biết căn nhà dân mà ông bà ở. Vùng quê này chợ búa xa đi lại khó khăn. Tôi đã một vài lần gặp bà đến nhà bếp của Khoa Văn nơi nấu ăn cho cán bộ và phát gạo cho các gia đình. Bà Tuấn thủ kho thấy Nonna đến liền tươi cười phát gạo và nhu yếu phẩm. Nonna đội nón, mặc quần lụa đen và áo ngắn sẫm màu, chân đi dép cao su, bà đeo ba lô và đựng gạo lấy được trong ba lô. Trông xa như một bà nông dân, dáng cao cao, rảo bước trên con đường quê. Nghĩ mà phục, mà cảm thương. Bà là người có bản lĩnh vượt qua khó khăn với niềm vui tự nhiên. Trong một lần họp bà có những ý kiến sâu sắc: “Trước những thử thách của hiện tại, tôi luôn nghĩ tới những người thầy của tôi ở Saint Petersburg trong chiến tranh chống Đức xâm lược… Họ là những tấm gương cho tôi hôm nay”. Cuộc sống khó khăn thì chiến tranh ở nơi sơ tán vẫn không hạn chế những nỗ lực của Nonna Stankevich trong nghiên cứu khoa học. Bà được Hội đồng Nhà nước phong tặng danh hiệu giáo sư vào năm 1984. Các công trình nghiên cứu có giá trị được ghi nhận. Nonna được xem là một trong “tứ quý” của Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp cùng với ba chị Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm, Hoàng Thị Châu. Các chị đều là Nhà giáo Nhân dân được phong hàm giáo sư, phó giáo sư. Đến bao giờ, bao giờ mới có được bộ tứ quý thứ hai tiếp nối. Khoa Sử cũng có một bộ tứ trụ triều đình gọi tắt là Lâm Lê Tấn Vượng. Giáo sư Đinh Xuân Lâm đã 84 tuổi vẫn còn mạnh khỏe tham dự nhiều cuộc hội thảo quốc gia, Giáo sư Phan Huy Lê phong cách chính thống có nhiều đóng góp cho ngành sử học, Giáo sư Hà Văn Tấn sắc sảo tài năng nhưng về già lại sớm ốm đau, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã mất trong nỗi tiếc thương của bạn bè đồng nghiệp. Triều đình nhỏ nào cũng có lúc phải thay trụ. Tre già măng mọc và ngày nay tre và măng cùng mọc. Trong bộ tứ quý, chị Nonna có những công trình khoa học. Theo Phó Giáo sư ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu trong bài viết về cô Nonna thì cô vốn có kiến thức sâu về Hán học, ngữ văn Trung Quốc rồi nghiên cứu về văn xuôi tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Lĩnh vực nào cô cũng thu được những kết quả đáng trọng. Hai cuốn sách Loại hình các ngôn ngữ (viết riêng), Ngữ pháp tiếng Việt (viết chung với Bustrov và Nguyễn Tài Cẩn). Chị Nonna là nhà Việt Nam học người Nga có thâm niên và có đẳng cấp nên các công trình quan trọng dịch thuật từ Việt sang Nga đều được chị chuyển dịch hoặc hiệu đính từ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bài viết của Chủ tịch Phạm Văn Đồng và lãnh đạo cao cấp. Công việc nhiều, chị Nonna làm chu đáo không nề hà, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn tâm sự chân tình.

“Cấp trên giao phó thì phải gắng thực hiện thôi. Cũng là một nhiệm vụ chứ. Nhưng mà ở mình có nhiều việc nó buồn cười lắm. Nhất là những tài liệu làm việc của những đoàn thuộc bộ nọ ngành kia, hội này hội khác. Cứ như bỏ bom. Mai hoặc cách vài ba ngày nữa lên đường thì hôm nay mang đến “nhờ chị giúp cho”. Thế là cô lại phải cố. Thức đêm thức hôm. Rành khổ” (Vũ Đức Nghiệu).

Bận công việc nhiều nhưng chị Nonna vẫn dành thì giờ chăm sóc bố chồng và các con chu đáo. Chị cũng quan tâm đến bè bạn, nhất là các chị trong khoa. Nhà ở khu chợ Giời có cây phong lan nhiều hoa. Nonna làm những phong bì nhỏ rồi cho hoa vào và gửi tặng các bạn. Chuyện nhỏ nhưng cũng nói lên tình cảm của chị với mọi người.

Qua nhiều năm không gặp Giáo sư Cẩn và bà Nonna – tháng 5/2002, tôi lại có dịp gặp lại Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và Nonna Stankevich ở Saint Petersburg nhân dịp Hội thảo Euro Viet V tổ chức ở St Petersburg Nga. Bà Nonna Stankevich có già đi chút ít nhưng dáng người khỏe và đậm hơn.

Nói đến Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là nói tới một nhà khoa học đầu ngành, sắc sảo, trí tuệ với nhiều công trình ngôn ngữ, Hán Nôm có giá trị. Giới ngôn ngữ học có một đội ngũ đông đảo nhiều tài năng thuộc nhiều thế hệ nhưng có lẽ ấn tượng hơn cả là hai nhà khoa học, hai Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và Cao Xuân Hạo. Cao Xuân Hạo là bẩm sinh và Nguyễn Tài Cẩn như ông nói vui “Cao Xuân Hạo là tài năng còn mình là Tài Cẩn”. Con người thông minh và dí dỏm ấy luôn có những ứng phó bất ngờ và thú vị trong giao tiếp. Sau khi ông mất ở Nga, giới ngôn ngữ học đã tổ chức hội thảo khoa học vào ngày 26/3/2011 với tiêu đề “Tọa đàm khoa học. Tưởng nhớ Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn” với 25 bản báo cáo khoa học, tham luận… Giáo sư Đinh Văn Đức cho biết, các công trình tiêu biểu của GS Nguyễn Tài Cẩn được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh gồm: Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng – từ ghép – đoản ngữ), Lịch sử nguồn gốc tiếng Việt, Nguồn gốc và sự hình thành cách đọc Hán Việt.

Đối với các công trình ngôn ngữ tôi là người ngoại đạo nhưng Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn nhà khoa học đời thường tôi lại có dịp tiếp xúc và chuyện trò. Ông cởi mở, vui tính, dễ chân tình. Làm chủ một gia đình có một ông bố nho phong, một bà vợ Nga và hai con đòi hỏi cách xử sự khôn khéo linh hoạt. Điều may mắn là bà Nonna là người phụ nữ giản dị, không trưng diện hình thức nên Giáo sư Cẩn và người bạn đời dễ hòa hợp với nhau trong cuộc sống. Hoàn cảnh kinh tế, khó khăn phải làm sao giải quyết các mối quan hệ gia đình xã hội chu đáo. Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là người khéo tay. Đồ đạc trong nhà như bàn ghế gãy chân đều sửa chữa được. Ông chăm làm chiều chuộng vợ trong hoàn cảnh sống chật vật, khó khăn. Giáo sư Cẩn cũng là người chu đáo với gia đình ngoại. Trong những chuyến đi thực tế ở vùng rừng núi ông chọn các vật có thể làm quà kỷ niệm. Ông là người chu đáo tỉ mỉ, tạo cho không khí gia đình êm ấm để làm khoa học. Sự say mê khoa học không có giới hạn và như quên hết thời gian cho công việc. Đó cũng là đức tính chung của các nhà nghiên cứu lâu năm thành danh. Tôi ở gần Giáo sư Bùi Văn Nguyên. Ông sống độc thân thỉnh thoảng con gái đến thăm chăm sóc bố. Ông ngồi miệt mài suốt buổi sáng đến trưa. Con gái nhắc bố: “Ông ơi, ông nghỉ để ăn cơm, ông ngồi lâu suốt sáng đến giờ”. Ông Nguyên trả lời: “Lâu gì mà lâu, bố mới tra được một chữ”. Giáo sư Tài Cẩn cũng chăm chút thời gian như thế. Dường như lúc nào ông cũng cầm bút ghi ghi chép chép ngay cả trong cuộc họp. Ông cười và bảo: Mình có mẹo của mình. Vào họp phải nắm nhanh vấn đề và phát biểu một ý gây ấn tượng rồi còn lại toàn bộ thời gian là của mình làm việc riêng.

Sau gần hai năm ngày mất của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, bà N.V.Stankevich viết bài “Nguyễn Tài Cẩn như tôi tưởng nhớ” với những dòng đằm thắm nói về người bạn đời của mình: “Nghĩ đến cuộc đời của Nguyễn Tài Cẩn thì thấy được một con đường thẳng, vượt nhiều khó khăn vật chất và tinh thần khó khăn chung cho cả nước và khó khăn riêng tư, một con đường tìm tòi đi lên cao. Nghĩ đến con người Nguyễn Tài Cẩn, thì lại sực nhớ tới câu thơ của nhà thơ Nga nổi tiếng Sergei Exérnin:

Thường chẳng nhận ra nhau khi đối diện,

Xa ngoảnh lại nhìn mới thấy lớn lao”

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.