Tín hiệu khởi sắc của công nghiệp vũ trụ Việt Nam
Dấu ấn 3 năm
Phải nói rằng, ở độ tuổi lên 3 nhưng những gì mà Trung tâm Vệ tinh Quốc gia thực hiện được rất đáng khâm phục. Dự án mang dấu ấn nhất có lẽ là đưa thành công vệ tinh siêu nhỏ do Việt Nam sản xuất PicoDragon vào vũ trụ năm 2013.
Vệ tinh siêu nhỏ Pico Dragon vào vũ trụ ngày 4/8/2013 trên con tàu vận tải HTV4 từ bệ phóng Yoshinobu ở Trung tâm Vũ trụ Tanegashima của Nhật Bản. Vệ tinh được chế tạo với mục tiêu phục vụ đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, từng bước tiếp cận quy trình thiết kế, chế tạo, tích hợp, và thử nghiệm vệ tinh. Nó đã hoạt động trên quỹ đạo trong hơn ba tháng (từ 19/11/2013 đến 1/3 năm nay), và liên lạc thành công với các trạm mặt đất của VNSC và nhiều nước trên thế giới.
Bên cạnh đó là việc khởi công xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam với qui mô lớn nhất Đông Nam Á, là nơi sản xuất các vệ tinh nhỏ phục vụ nhu cầu dự báo thời tiết, giám sát, thăm dò, tìm kiếm cứu nạn, biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên thiên nhiên và giám sát môi trường… Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam được triển khai trên diện tích gần 9ha với nguồn đầu tư 54 tỷ yên từ nguồn vốn ODA ưu đãi của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng của Chính phủ đang triển khai đúng tiến độ. Khi hoàn thành vào năm 2017, Việt Nam sẽ có Trung tâm Vũ trụ hiện đại hàng đầu Đông Nam Á.
Mô hình Trung tâm Vũ trụ Việt Nam tại Hòa Lạc
Ngoài ra, Trung tâm còn nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vệ tinh vào các lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quản lý tài nguyên, giám sát môi trường, thiên tai, như nghiên cứu ứng dụng về quản lý rừng khu vực Sơn La, Hòa Bình và khu vực rừng Tây Nguyên, hay công trình nghiên cứu về thiên tai lở đất tại Hòa Bình.
Theo lộ trình phát triển vệ tinh "made in Việt Nam", sau khi phóng thành công vệ tinh siêu nhỏ PicoDragon (1 kg), Việt Nam sẽ tiếp tục phóng vệ tinh NanoDragon (10 kg) năm 2016. Hai năm sau, MicroDragon (50 kg) sẽ vào vũ trụ và tiếp đó là LOTUSat-2 (500 kg) vào năm 2020.
PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Vệ tinh Quốc gia, để phát triển ngành công nghiệp vũ trụ tại Việt Nam, đưa nước ta trở thành một trong những nước trong top dẫn đầu về công nghiệp vũ trụ trong khu vực, Trung tâm Vệ tinh Quốc gia sẽ phát triển thành 4 trung tâm lớn, bao gồm: Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, Trung tâm phát triển nhân lực và chuyển giao công nghệ vũ trụ, Đài thiên văn Nha Trang và Trung tâm Ứng dụng Công nghệ vũ trụ Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiến tới thương mại hóa
Theo đà phát triển, đến năm 2020 Việt Nam sẽ có LOTUSat2 là vệ tinh thương mại, có thể sản xuất ảnh vệ tinh cho ngành dịch vụ bán ảnh ra thế giới... PGS.TS Phạm Anh Tuấn cho biết.
Đây cũng là định hướng phát triển ngành công nghệ vũ trụ trong tương lai của Việt Nam. Sau thành công khi đưa vệ tinh siêu nhỏ đầu tiên của Việt Nam PicoDragon lên không gian năm 2013, đội ngũ nhân viên của trung tâm đang tích cực làm việc để tiếp tục đưa vệ tinh NanoDragon lên không gian vào cuối năm 2016 và tiến tới năm 2020, đưa vệ tinh thương mại đầu tiên do Việt Nam sản xuất là LOTUSat 2 vào vũ trụ. Vệ tinh LOTUSat 2 là vệ tinh đầu tiên được sản xuất, lắp ráp và vận hành bởi đội ngũ kỹ sư của Trung tâm Vệ tinh Quốc gia mà không có sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài như các vệ tinh trước đó.
PGS.TS Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh: “LOTUSat 2 là vệ tinh thương mại, tức là ảnh thu được có thể đem bán ra thế giới. Còn vệ tinh made in Viet Nam là cả một lộ trình để đạt đến một đẳng cấp. Chiến lược của chúng ta là tự làm chủ được công nghệ vệ tinh nhỏ quan sát trái đất của Việt Nam. Đấy là cái mốc để hoàn thành bước đầu chiến lược sản xuất vệ tinh của Việt Nam. Tất cả các vệ tinh trước pico, nano, micro… là cả quá trình học tập và nắm được công nghệ, chỉ có duy nhất LOTUSat 2 là hoàn toàn lắp ráp tại Việt Nam".
Tuy nhiên, để đạt được lộ trình trên, Việt Nam còn gặp khó khăn về nguồn nhân lực. Hiện nay, Việt Nam chưa có đại học nào đào tạo kỹ sư công nghệ vũ trụ, có chăng là những đơn vị đào tạo bậc đại học liên kết với nước ngoài.
Để khắc phục tình trạng này, hiện Trung tâm Vệ tinh Quốc gia đã chủ động đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực với việc cử đi học bậc thạc sĩ tại Nhật Bản cũng như liên kết đào tạo tại Việt Nam. Tính đến nay, đã có 36 thạc sĩ công nghệ vũ trụ được đào tạo tại Nhật Bản bằng nguồn ngân sách dự án công nghệ vũ trụ quốc gia.
Bên cạnh đó, Trung tâm Vệ tinh Quốc gia cũng liên kết với Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ngành vũ trụ và ứng dụng, hợp tác với Đại học Công nghệ đào tạo kỹ sư công nghệ vũ trụ.
Với sự kỳ vọng và mục tiêu to lớn đã được đặt ra, PGS.TS Phạm Anh Tuấn kiến nghị, để ngành công nghệ vũ trụ đạt mục tiêu là ngành công nghệ mũi nhọn cần phải có cơ chế đãi ngộ đặc thù giống như năng lượng nguyên tử, y tế…