Thuốc cấp cứu adrenalin
Adrenalin còn có tên khác là epinephrin và khá nhiều tên biệt dược. Hầu hết các bệnh viện và các tuyến y tế cấp cơ sở đều sử dụng loại thuốc sản xuất trong nước có tên thông dụng là adrenalin. Trong cơ thể chúng ta, adrenalin cũng được sản sinh ra từ phần tuỷ của tuyến thượng thận. Bản chất của thuốc là hoạt chất có hai nhóm – OH (diphenol) nên rát dễ bị oxy hoá. Vì vậy, thuốc adrenalin thường được đóng trong ống thuỷ tinh trung tính thẫm màu hàn kín để tránh ánh sáng. Thuốc dễ bị biến đổi bởi các tác nhân oxy hoá như không khí, ánh sáng, nhiệt độ, kiềm.
Adrenalin có tác dụng cường giao cảm điển hình. Nó làm tăng nhịp tim, tăng lưu lượng cơ tim, làm co mạch, tăng huyết áp. Vì vậy adrenalin được chỉ định dùng trong các trường hợp tim ngừng đập, suy tim mạch, choáng váng, sốc, tai biến do tiêm truyền (còn gọi là sốc do trtuyền dịch), ngất, hôn mê, giảm glucose huyết, phù, hạ huyết áp cấp.
Thuốc cũng có tác dụng làm giãn phế quản, làm dễ thở nên dùng trong các trường hợp cắt cơn hen phế quản. Tuy nhiên không nên dùng liên tục, dùng liều cao nhiều lần vì sẽ làm cho quen thuốc và cơn hen sau đó sẽ nặng hơn. Adrenalin làm co các động mạch nhỏ nên có thể dùng để giảm xung huyết niêm mạc trong các bệnh viện mũi, xoang, viêm kết mạc mắt. Ngoài ra còn dùng để cầm máu tại chỗ trong chảy máu cam bằng cách lấy bông thấm dung dịch adrenalin 0,1% nhét vào lỗ mũi. Dùng adrenalin kết hợp với thuốc tê sẽ làm kéo dài thêm tác dụng của thuốc tê. Trong điều trị glaucoma hoặc kiểm tra nhãn áp, adrenalin cũng được sử dụng vì nó có tác dụng làm giãn đồng tử.
Các bệnh viện hiện nay sử dụng chủ yếu là loại ống tiêm 1ml có 1mg hoạt chất (nồng độ 0,1% ) để tiêm bắp hoặc tiêm dưới da. Liều trung bình là 0,2 - 0,5 mg/lần, tối đa là 1mg/lần (tức là tối đa chỉ dùng đến 1 ống/lần). Ngoài ra cũng có thể cho uống với liều gấp đôi liều tiêm nhưng chỉ tạm thời vì thuốc phân huỷ nhanh bởi dịch dạ dầy và hấp thu chậm qua đường tiêu hoá. Thuốc có thể tiêm tĩnh mạch nhưng phải pha loãng băng dung dịch NaCl đẳng trương và phải tiêm thật chậm đồng thời với theo dõi sắc mặt và mạch. Nếu thay đổi sắc mặt, mạch nhanh phải ngừng tiêm ngay. Liều tiêm tĩnh mạch tối đa chỉ 0,25mg/lần tức là 1/4 ống thuốc nói trên.
Một số tác dụng phụ của adrenalin như làm hối hộp, lo lắng, nhức đầu, khó ngủ, ở người có bệnh tim có thể gây loạn nhịp. Chống chỉ định trong các bệnh xơ cứng, xơ vữa động mạch, cao huyết áp. Tuyệt đối không dùng cho cấp cứu người bị điện giật có triệu chứng rung tâm thất. Adrenalin được bảo quản theo chế độ thuốc độc bảng A.
Chất có tác dụng tương tự là noradrenalin, khác adrenalin là không có một nhóm - CH 3gắn vào nguyên tử Nitơ. Thuốc này có tác dụng tăng huyết áp mạnh hơn adrenalin khoảng 1,5 lần.