Thực trạng và giải pháp về đô thị hoá vùng ven đô thành phố Hồ Chí Minh từ sau đổi mới
1. Đặt vấn đề
Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị, đồng thời đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô thị mở rộng.
Ở Việt Nam , trước 1975, Đất nước liên tục bị chiến tranh nên ở Miền Bắc, quá trình đô thị hoá diễn ra hết sức chậm chạp. Ở miền Nam dưới thời Mỹ - Nguỵ, đô thị hóa diễn ra ồ ạt ở Sài Gòn (nay là Tp. Hồ Chí Minh) nhưng mang tính cưỡng bức nên đã để lại hậu quả nặng nề sau chiến tranh.
Sau năm 1975, cả nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm của các tỉnh miền Nam là khắc phục mọi khó khăn, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đời sống nhân dân. Do vậy, những năm đầu sau giải phóng, đô thị hoá ở Sài Gòn về cơ bản không có gì đáng kể.
Từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Sài Gòn với ưu thế là một thành phố trẻ có tiềm năng về khoa học kỹ thuật, về quan hệ buôn bán với nước ngoài và tiềm ẩn nền kinh tế đa thành phần đã nhanh chóng trở thành trung tâm công nghiệp - thương mại - dịch vụ - du lịch và quan hệ quốc tế. Đây cũng là thành phố đi đầu cả nước về tốc độ đô thị hoá, diễn ra trong không gian rộng lớn cả nội ô và vùng ven đô.
Ven đô Tp. Hồ Chí Minh là một vùng rộng lớn bao gồm các quận ven nội và các huyện cửa ngõ của thành phố như Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh. Khu vực ven đô Tp. Hồ Chí Minh chiếm 79% diện tích và 17% dân số thành phố (tính tới thời điểm 1996). Trong chiến tranh cũng như lúc hoà bình, vùng ven đô có một vị trí hết sức quan trọng đối với sự trường tồn của thành phố. Khi chiến tranh xảy ra, vùng ven là pháo đài xanh để bảo vệ cho sự bình yên của thành phố. Hoà bình lập lại, vùng ven đô là nơi cung cấp lao động, lương thực thực phẩm để xây dựng phát triển thành phố. Đồng thời, đây còn là "vành đai xanh" để chắn lọc gió bụi cho nội ô. Trong quá trình đô thị hóa Tp. Hồ Chí Minh, vùng ven đô là nơi trực tiếp chịu sự tác động của làn sóng di dân nông thôn - thành thị. Nơi đây cũng đã xảy ra quá trình đô thị hoá mạnh mẽ. Trong phạm vi bài viết này xin được đề cập đến một số nét nổi bật trong quá trình đô thị hóa vùng ven đô Tp. Hồ Chí Minh (chủ yếu là các quận vùng ven).
2. Quá trình đô thị hoá của các quận ven đô TP. Hồ Chí Minh
Quá trình tập trung dân cư đô thị
Trong quá trình đô thị hoá, vấn đề di dân nông thôn - thành thị xảy ra với hầu hết các nước trên thế giới và trong khu vực Thái Lan, Indonesia, Philippine. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới của đất nước đã làm cho quan hệ sản xuất được cải thiện, năng lực sản xuất được giải phóng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh đã thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm. Vì vậy, sau đổi mới, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh đều có sự gia tăng dân số đột ngột, đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh. Theo điều tra của các nhà xã hội học, mỗi ngày có hàng trăm người đủ các thành phần trí thức đến công nhân, nông dân đủ mọi lứa tuổi từ cụ già đến em nhỏ khắp các địa phương trong nước đổ về thành phố với ước muốn khác nhau: Tìm kiếm công ăn việc làm, thăng quan tiến chức, tìm đất dụng võ. Do đó đã làm cho sự gia tăng dân số cơ học của Tp. Hồ Chí Minh vượt trội so với các thành phố khác. Năm 1980 Tp. Hồ Chí Minh có khoảng 3.202.000 người. Năm 1990 là 4.005.000 người và đến năm 2000 là hơn 6.000.000 người. Nếu xét về dân nhập cư: năm 1996 có khoảng 600.000 người, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên của thành phố chỉ khoảng 1,5% mỗi năm thì tăng dân số cơ học lên đến 2%. Sự gia tăng dân số nhanh đã làm cho mật độ dân số quá đông. Bình quân là 23.800 người/km 2. Trong thực tế lên tới 35.900 người/km 2. Một số quận trung tâm mật độ còn cao hơn; ở quận 5 là 52.900 người/km 2, các quận ven nội đô mật độ dân thấp hơn; Gò Vấp mật độ dân số cao nhất là 29.945 người/km 2(phường 1). Dần dần, các quận nội đô trở nên quá tải, di dân nông thôn - thành thị bành trướng về các quận ven. Trong 600.000 người nhập cư năm 1996 có 65.609 người tạm trú ở Thủ Đức, tập trung tại một số phường như Phước Bình 2.426 người, Hiệp Bình Chánh 5.816 người. Phường 26 quận Bình Thạnh có 4.283 người; phường 12 (Bình Thạnh) có 7.576 người.
Ngoài bộ phận dân nhập cư từ nông thôn đến, ven đô còn là nơi giãn dân của nội thành. Với chính sách chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột, nhà trên kênh rạch của thành phố, ven đô đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người dân giàu có từ các quận trung tâm cũng tìm đến ven đô để tậu đất, tậu nhà, xây dựng biệt thự làm nơi thư giãn cuối tuần hoặc vào các ngày tết, lễ. Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở công nghiệp, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài ở ven càng nhiều. Chủ yếu là dân di cư từ nông thôn ra thành thị làm các nghề thợ hồ, may mặc, dệt da, chế biến lương thực, thực phẩm. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm cho dân số ven đô tăng lên nhanh chóng.
Tình hình cơ sở hạ tầng đô thị
Như đã trình bày, đặc điểm chung của các quận ven đô sau giải phóng là cơ sở hạ tầng nghèo nàn, yếu kém. Trong quá trình đô thị hóa, việc gia tăng dân số đã kéo theo tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, cơ sở hạ tầng đô thị xuống cấp nhanh chóng.
Những năm sau đổi mới, khi kinh tế phát triển, hầu hết các quận ven đô đều chăm lo đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông: đường Phan Văn Trị, Đinh Bộ Lĩnh, Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh), đường Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Văn Lượng, Nguyễn Oanh (Gò Vấp), đường liên phường 10 - 19 - 18 nút giao thông Bà Quẹo (Tân Bình). Hệ thống cấp thoát nước được chú ý nạo vét, xây dựng kè kênh Nhiêu Lộc, kênh Tham Lương, hệ thống cống xả được khôi phục. Ngoài ra, các quận đều chú ý lắp đặt thêm đường ống nước sạch, cải tạo lưới điện trung thế, hạ thế cho các khu dân cư. Đặc biệt là các quận trung tâm xây dựng mở mang trường học, bệnh viện, khu công thự, nhà ở, khu vui chơi nhằm cải thiện đời sống nhân dân. Một số quận đã thực hiện chương trình nhà ở cho người nghèo. Riêng quận Bình Thạnh từ năm 1994 - 1999 đã xây dựng hoàn chỉnh khoảng 1000 căn hộ tại các khu chung cư để phục vụ cho việc giải toả kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè và nhà ở cho người có thu nhập thấp. Tính đến năm 1995, Tp. Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước về tốc độ xây dựng nhà ở với 2.618.640 m 2. Dự tính đến năm 2010 thành phố sẽ đầu tư xây dựng 9 khu dân cư với diện tích 8.450 ha, tổng diện tích xây dựng nhà: 67 triệu m 2. Tổng vốn đầu tư ước tính 161 nghìn tỷ đồng.
Kết quả sau 10 năm đô thị hoá, nhiều khu đô thị mới xuất hiện: Khu thương mại chợ Bà Chiểu, khu dân cư công nghiệp Bình Hoà (Bình Thạnh), khu Ngã 6, khu Căn cứ 26, khu Chợ Tân Sơn Nhất (Gò Vấp), khu công nghiệp phường 20, khu dân cư Tân Trụ, khu Cư xá Nhiêu Lộc, khu công nghiệp tập trung phường 15 - 16 (Tân Bình). Các công trình văn hoá du lịch được xây dựng với quy mô lớn, thu hút nhiều khách tham quan như khu Văn Thánh, Bình Thới, Thanh Đa, Suối Tiên. Các khu chung cư mới như Xóm Cải, Xóm Đầm, Thị Nghè xuất hiện thay thế dần các khu nhà ở tồi tàn lụp xụp.
Với những chuyển biến về kinh tế xã hội như đã nêu, quận ven đô đã dần chuyển hoá thành nội ô, các huyện ngoại thành chuyển biến thành vùng ven. Đến năm 1997, một số quận mới được hình thành, bao gồm Quận 12 được tách ra từ huyện Hóc Môn, quận 7 được tách ra từ huyện Nhà Bè, quận 2, quận 9, quận Thủ Đức được tách ra từ huyện Thủ Đức.
Sự chuyển biến về tâm lý - lối sống của cư dân đô thị
Trước những thay đổi về kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của người dân đô thị được nâng cao. Mở cửa hội nhập và giao lưu làm cho người dân ven đô tiếp cận nhiều điều mới lạ. Họ học tập được kinh nghiệm làm ăn sinh sống với khoa học kỹ thuật, với cung cách làm ăn mới, nhận thức họ mở mang, giao tiếp ứng xử tế nhị, lịch lãm hơn, tự tin hơn. Những phong tục tập quán lạc hậu, tuỳ tiện được rũ bỏ dần. Ngày nay, thanh niên vùng ven đã quen với lối sống mới, với các tác phong công nghiệp. Họ lao vào học tập văn hoá, rèn luyện tay nghề, làm việc có năng suất, chất lượng hơn, chính vì thế thu nhập cũng cao hơn, mức độ chi tiêu cũng tăng lên. Theo số liệu thống kê của Phòng Thống kê quận Gò Vấp cho thấy chỉ tiêu bình quân đầu người tăng dần.
Năm | 1985 | 1995 | 1999 | 2000 |
Số tiền đồng | 201.346đ | 386.084đ | 492.297 đ | 560.000 đ |
Ở Tân Bình: Năm 1995 là 290.000đ/người/tháng. Năm 2005 là 660.000đ/người/tháng.
Việc chi tiêu cũng hợp lý hơn. Tỷ lệ chi cho nhà, thiết bị, đồ dùng tăng, chi phí cho ăn uống giảm.
Ngược lại, một bộ phận dân cư làm ăn phát đạt hoặc được đền bù giải toả, bán đất, bán nhà có thu nhập cao đã xuất hiện tâm lý ăn chơi, hưởng thụ, chạy đua theo mốt. Một số người do nhận thức không đầy đủ đã quá đề cao giá trị đồng tiền, đôi lúc, vì đồng tiền đã chà đạp lên nhân phẩm của người thân trong gia đình, anh em họ hàng, tình làng nghĩa xóm phai nhạt.
3. Một số tồn tại và giải pháp
Tồn tại:
- Vấn đề di dân nông thôn - thành thị và gia tăng dân số cơ học.
Gia tăng dân số trong quá trình đô thị hoá ven đô Tp. Hồ Chí Minh đã đặt ra những vấn đề nan giải về giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội làm cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp.
- Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hoá giàu nghèo.
Trong quá trình đô thị hoá hội nhập và phát triển, người dân đô thị cần có trình độ văn hóa tay nghề cao để tiếp cận với nhu cầu tuyển dụng lao động. Song thực tế cho thấy ven đô thành phố còn nhiều người thất học. Theo số liệu thống kê của Sở Lao động - Thương binh xã hội thành phố, năm 1995 ngoại thành có gần 755.000 người trong hạn tuổi lao động. Số không có việc làm và làm việc không ổn định gần 99.000, tính bình quân mỗi huyện có từ 12.000 đến 15.000 người chưa có việc làm, hầu hết không có nghề chuyên môn và trình độ học vấn bình quân lớp 7/12. Nhà Bè có gần 60.000 người trong độ tuổi từ 15 đến 34, trong đó có khoảng 3000 người không qua lớp 5, 20.000 người chưa học hết Trung học cơ sở. Vì vậy, khu chế xuất Tân Thuận đóng trên địa bàn Nhà Bè rất cần tuyển công nhân, nhưng thực tế số người dân Nhà Bè được tuyển vào rất ít. Thất học, thất nghiệp, đói nghèo sẽ dẫn đến phân tầng xã hội và phân hoá giai cấp. Đây là sự bất ổn đối với mong muốn phát triển một xã hội đô thị công bằng, ổn định và văn minh của nhân dân ta.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường:
Tại các quận, huyện ven đô, việc chiếm dụng đất công, san lấp mặt bằng, kênh rạch lấn chiếm lòng lề đường để làm nhà và xây dựng trái phép đang diễn ra hàng ngày làm cản trở đến việc tiêu, thoát nước đô thị. Ở quận 12 sông Vàm Thuật bị lấp chiếm hơn 1.500 m 2vi phạm tuyến hành lang giao thông đường thuỷ. Kênh Tân Trụ (phường 17 - Tân Bình) bị san lấp xây dựng nhà với quy mô lớn. Điều đó đã làm cho nước ngập úng nhà dân sau mỗi cơn mưa, ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân và môi trường đô thị.
Ô nhiễm môi trường còn do lượng người nhập cư quá đông, trình độ học vấn có hạn, quen với lối sống tiểu nông, tuỳ tiện vứt xác động vật, vứt rác ra đường, ra các mảnh đất lưu không xen lẫn trong khu dân cư. Mức sống cao cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường. Rác thải trong mỗi gia đình, khu phố ngày càng nhiều nếu không được xử lý tốt, vi trùng sẽ sinh sôi nảy nở, bệnh tật sẽ dễ dàng lây lan.
Ô nhiễm môi trường luôn luôn gắn liền với ô nhiễm nguồn nước. Trong khi tại Tp. Hồ Chí Minh có hơn 6 triêu người; hơn 1 triệu hộ dân chỉ có 300.000 đồng hồ nước. Ở các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng tỷ lệ cấp nước sạch chỉ đạt tới 60-70%. Ô nhiễm nguồn nước là vấn đề hết sức bức xúc đối với ven đô Tp. Hồ Chí Minh bởi vì đa số người dân vùng ven đều dùng nước máy tự khoan chưa qua kiểm nghiệm và không qua xử lý.
- Vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị
Nhìn chung hầu hết ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu nhà ở. Đặc biệt là dân nghèo đô thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Cho nên một số người đã bất chấp tất cả những quy định về quản lý đô thị. Nhiều hộ tự ý san lấp, lấn chiếm, sang nhượng đất để xây nhà một cách tạm bợ, tuỳ tiện. Việc xây cất không theo quy hoạch làm xuất hiện "nhà không số, phố không tên" chen lấn hỗn độn, đường lối đi lại tối tăm, quanh co. Do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng hình sự lẩn trốn pháp luật. Theo số liệu năm 2005 của Cục Thống kê Tp. Hồ Chí Minh, tệ nạn xã hội ở thành phố ngày càng tăng, nhất là ở lứa tuổi thanh thiếu niên (chiếm trên 80% vụ phạm pháp hình sự). Địa bàn có số vụ phạm pháp hình sự cao là quận Tân Bình và quận Bình Thạnh. Mặt khác, xây cất không theo quy hoạch đã ảnh hưởng đến mỹ quan của thành phố. Chắc chắn điều đó sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển thành phố, trường tồn bền vững.
Giải pháp:
Để hạn chế những yếu tố tiêu cực trong quá trình đô thị hoá ven đô Tp. Hồ Chí Minh, thiết nghĩ còn nhiều vấn đề cần giải quyết, trước mắt cần xem xét một số mặt sau đây:
- Tăng cường đầu tư cho giáo dục nhằm nâng cao mặt bằng dân trí, nâng cao nhận thức của người dân. Đồng thời đó là biện pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề lao động, việc làm để đảm bảo cho người dân ven đô được làm việc có thu nhập ổn định, làm chủ cuộc sống của mình, tránh mọi phiền toái cho xã hội.
- Hạn chế và quản lý tốt hơn đối với dân nhập cư, góp phần lập lại trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây dựng xã hội đô thị ổn định, bền vững.
- Bảo vệ môi trường đô thị thông qua công tác đồng bộ trên các mặt luật pháp, hành chính, kinh tế xã hội nhằm tạo điều kiện tổ chức tốt môi trường ở và môi trường lao động, giảm thiểu tác động xấu ảnh hưởng đến các yếu tố tự nhiên và xã hội đô thị. Việc bảo vệ môi trường đô thị là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cấp các ngành, các tổ chức, các cộng đồng và sự tham gia của người dân. Bảo vệ môi trường phải trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật đi đôi với việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội.
- Tăng cường giáo dục nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới đối với cư dân đô thị, hạn chế những hành vi xấu làm ảnh hưởng đến lối sống văn minh lịch sự của cư dân đô thị.
- Đổi mới trong lĩnh vực quản lý nhà đất đô thị; Tăng cường các biện pháp quản lý đô thị một cách hữu hiệu nhằm giữ gìn bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của đô thị đảm bảo cho việc quy hoạch, phát triển đô thị lâu dài và bền vững.