Thực tiễn Trung Hoa
Đi đi về về Trung Hoa - Pháp, từ 2001 ông về ở hẳn Bắc Kinh. A.Chieng được chứng kiến từ đầu chí cuối (từ 1978 đến nay) công cuộc Cải cách trong ba thập kỷ vừa qua đã tạo nên "thần tích kinh tế" Trung Hoa. Sự nghiên cứu thực tiễn Trung Hoa đương đại của A.Chieng có giá trị kiểm chứng đối với những tư tưởng mà Jullien phát hiện trong hoạt động lý thuyết.
Tác giả thấy những học giả phương Tây nghiên cứu Trung Hoa bằng những khái niệm phương Tây, do đó không trúng. Tác giả đi tìm những khái niệm - công cụ thích đáng và kết quả là đã tìm thấy chúng trong những công trình nghiên cứu Trung Hoa (đối sánh với Châu Âu) của F.Jullien.
Đây "là một cuộc đi dạo có bình luận thuyết minh trong lòng của Trung Hoa ngày nay, người đi dạo là một thương nhân Trung Hoa được giáo dục ở Pháp(...), cùng đi với anh ta là những bài viết của một triết gia Pháp, trở thành nhà Trung Quốc học để hiểu phương Tây hơn, cuộc đi dạo được kể lại trong tập biên khảo này"2.
Trong công trình đặt ra nhiều vấn đề lịch sử, triết học quan trọng, những kiến giải của A.Chieng về những vấn đề này cuối cùng dẫn đến sự đối sánh việc thực hiện mô hình chung: kinh tế thị trường + dân chủ ở phương Tây, ở Nga (sau khi Liên Xô sụp đổ) và ở Trung Quốc hiện đại hóa, sự đối sánh này cho ta thấy Trung Quốc trên con đường cải cách một mặt ra sức học phương Tây về khoa học, công nghệ, về cách quản lý và điều hành hiện đại; mặt khác đem kết hợp với những phương thức tư duy, những nếp nghĩ bản sắc Trung Hoa, chính sự kết hợp này đã tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong ba thập kỷ qua.
![]() |
![]() |
- Tích cực học tập những phương thức tư duy, nếp nghĩ trong khoa học nhân văn phương Tây đồng thời có ý thức nghi ngờ tính phổ quát của chúng.
- Có ý thức khai thác nguồn những phương thức tư duy Đông Á (trong đó có Việt Nam), đem kết hợp với trí năng phương Tây, đặng vận dụng chúng một cách sáng tạo trong việc nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và những vấn đề lý thuyết được đặt ra từ đó.
Trên cơ sở những tìm tòi sâu sắc và sáng tạo của F.Jullien và A. Chieng, tôi nêu lên những phương thức tư duy, những nếp nghĩ đáng chú ý của Đông phương, đúng hơn của văn hóa khu vực Đông Á mà TrungHoa là tiêu biểu.
Ban đầu vấn đề được đặt ra là vai trò của "văn hóa" trong “thần tích kinh tế Trung Hoa” trong ba thập kỷ vừa qua. A.Chieng cho rằng sau khi Trung Hoa tiếp nhận mô hình "kinh tế thị trường + dânchủ" thì nhân tố quyết định tạo ra thần tích kinh tế là văn hóa coi trọng sự biến hóa (culture de la transformation) của Trung Hoa, trong khi đó văn hóa của phương Tây là văn hóa coi trọng chân lý(culture de la verité), Nga (sau khi Liên Xô sụp đổ) cũng ở trong quỹ đạo của văn hóa sau (so sánh tình hình hiện tại của Nga và Trung quốc có thể hình dung được những tác động khác nhau của hai vănhóa nói trên). Thế nào là "coi trọng chân lý", là "coi trọng sự biến hóa" sẽ nói rõ hơn ở phần sau, đến đây cần thấy sự phân biệt hai văn hóa nói trên có tính chất hết sức ước lệ: nói rằng "coi trọngsự biến hóa" không có nghĩa là không quan tâm đến vấn đề chân lý, vấn đề là ở liều lượng, và trong liều lượng có những mức độ khác nhau: có biết đến vấn đề chân lý nhưng không chú ý lắm, có quan tâmđến chân lý nhưng ít nhiều vẫn bị lu mờ do sự đặc biệt quan tâm đến sự biến hóa. Nói đến tác động của văn hóa tới sự phát triển kinh tế, F. Jullien hiểu đây không phải là "một nước sơn véc-ni phủ lênvăn xuôi của dịch vụ kinh doanh", cũng không phải là một lĩnh vực hoạt động của con người bên cạnh những lĩnh vực khác (kinh tế, chính trị, quân sự...), nó là những "phương thức tư duy (mode depensée) bao trùm, phát tán, xuyên suốt mọi lĩnh vực, là thiên hướng chi phối cách suy nghĩ và cách xử lý trong mọi hoạt động của con người.
![]() |
Thế nào là văn hóa coi trọng chân lý của phương Tây? Có nhiều cách hiểu.
Coi trọng chân lý trong khoa học tự nhiên và công nghệ là chung cho cả phương Tây và Trung Quốc. Từ thế kỷ 16, với sự hình thành của phương pháp thực nghiệm-toán học, đặc biệt từ Gallilée (1564 -1642), nhà bác học đã khẳng định phương pháp này, ở Châu Âu, khoa học tự nhiên và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, đến thế kỷ 19 thì phát triển ào ạt. Sau biến cố Chiến tranh nha phiến (1939), Trung Quốcmới tỉnh ngộ sự tụt hậu thảm hại của mình trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Từ đấy đến nay, trải qua những thể chế khác nhau, học tập và đuổi kịp phương Tây trong lĩnh vực này luôn luôn là mục tiêuhàng đầu của Trung Quốc.
![]() |
Phương Tây coi trọng chân lý (lý thuyết), Trung Hoa coi trọng sự biến hóa.
![]() |
Ở trên có nói đến sự khác biệt: phương Tây coi trọng Chân lý, Trung Hoa coi trọng Đạo. Thực ra trong văn hóa phương Tây cũng có Đạo, nhưng Đạo của phương Tây bao giờ cũng dẫn đến một mục đích cuốicùng: Thượng Đế, Chân lý (tuyệt đối), Cứu rỗi... Đạo của văn hóa Trung Hoa "không cần đến tính mục đích, hay đúng hơn dửng dưng với tính mục đích", nếu như đạo có chăng một cứu cánh, thì " không thểcó cứu cánh nào khác là sự đổi mới ở chính nó"12. Nói tóm lại Đạo là con đường không hướng về mục đích nào cả - chẳng qua những con người tội nghiệp phóng chiếu mục đích của họ lên nó - mà qua nó sựbiến hóa đi từ "hanh thông" này đến "hanh thông" khác, từ “biến thông” này đến “biến thông” khác, từ "khai thông này đến khai thông khác"...( biến thông là một khái niệm cơ bản của Kinh Dịch).
Đạo là Con đường Biến hóa. Đạo không hướng về một mục đích nào cả. Trong công cuộc cải cách của Trung Quốc, theo A.Chieng, "cách tiến hành sự tạo ra biến hóa(...) quan trọng hơn mục đích cuối cùng,nếu quả như có một mục đích như vậy"13. Tác giả tỏ ra nghi ngờ cách làm việc cứ đề ra "mục tiêu này, mục tiêu nọ", "tổng lộ tuyến này, tổng lộ tuyến nọ" khi nhận định rằng : "Bằng cách tổ hợp nhữngtập hợp cải cách lớn, cải cách nhỏ, Trung Quốc chẳng cần đề ra mục tiêu, mục đích, thực sự đã đi rất nhanh và xa, xa hơn và nhanh hơn bất cứ lời tiên đoán nào được đưa ra năm 1980"14. Tác giả nghingờ luôn một nếp suy nghĩ, một nếp làm việc được hình thành trong khuôn khổ trí thức của phương Tây: "nhất thiết phải định nghĩa mục tiêu, cứu cánh (H.N.H.tô đậm)" 15. Đề ra những mục đích, mục tiêukhông phải là khó; điều quan trọng là thực hiện, đưa chúng vào thực tại, vào đời sống bằng hoạt động thực tiễn, bằng hành động và tạo ra biến hóa, chính trong hoạt động thực tiễn, những mục đích đượcđiều chỉnh, được xem xét lại, kể cả vứt đi. Mục tiêu là quan trọng nhưng quan trọng hơn là đưa mục tiêu vào thực tại đời sống bằng hoạt động thực tiễn. Cũng vậy, theo A.Chieng, "sự tôn trọng nhữngnguyên lý chưa đủ, còn phải xem người ta vận dụng chúng như thế nào"16. Những nguyên lý thuộc phạm vi lý thuyết, vận dụng chúng thuộc phạm vi hoạt động thực tiễn. Việc vận dụng một cách tàn bạonhững nguyên lý của một mô hình mới (và cấp tiến) có thể dẫn đến những hậu quả tai hại. "Bốn hiện đại hóa" của Đặng Tiểu Bình đã trở thành mục tiêu lớn, những nguyên lý lớn của Cải cách Trung Hoađương đại. Nhưng nói đến thành công lớn lao của Cải cách hiện đại hóa Trung Hoa trước hết phải nói đến phương pháp cải cách Trung Hoa đã được Đặng Tiểu Bình trình bày một cách rất Trung Hoa (vừa dễhiểu, vừa sâu sắc): "Phải mò mẫm những viên đá để qua sông"17. Mục đích thực sự của cải cách không phải là đề ra những mục tiêu mà là tạo ra những quá trình biến hóa thực tại. Những quá trình nàykhông bao giờ tuân theo những sơ đồ của lý thuyết hoặc mô hình. Do đó có khi phải "mò mẫm" từng bước một, đây là minh triết Trung Hoa. Vả chăng “mò mẫm những viên đá” còn có ý nghĩa ở bình diện nhậnthức luận, đó là thao tác tiếp nhận sự phản hồi từ những quá trình thực tại (phản hồi [feed back] là một khái niệm cơ bản của lý thuyết thông tin và rất được coi trọng trong lề lối làm việc Mỹ)."Tiến hành sự biến hóa quan trọng hơn là mục đích cuối cùng..." 18, coi trọng sự "vận dụng nguyên lý" hơn cả bản thân nguyên lý..., từ những quan điểm này có thể nói đến "tinh thần thực dụng" trongvăn hóa Trung Hoa. Để hiểu sâu sắc "tinh thần thực dụng" này, theo ý riêng của tôi, không thể bỏ qua chủ nghĩa thực dụng Mỹ - cơ sở triết học của "tinh thần thực dụng Mỹ" mà Lênin đánh giá rất cao("phải kết hợp tinh thần cách mạng Nga và tinh thần thực dụng Mỹ...”). Theo quan điểm của chủ nghĩa thực dụng Mỹ - mà những đại diện xuất sắc là C.S.Pierce (1839-1914), William James (1842-1910),J.Dewey (1859-1952) - những tư tưởng và lý thuyết phải được thử nghiệm trong thực tiễn, phải được đánh giá ở chỗ hành động theo tư tưởng này hay lý thuyết nọ có đem lại kết quả mong muốn không,tất cả những gì được xem là chân lý, là khoa học, là đạo đức và chính trị công minh đều phải được thử nghiệm theo cách này; triết thuyết này nhấn mạnh chức năng thực tiễn của tri thức như là một côngcụ để thích ứng với thực tại và kiểm soát nó, ý nghĩa của một quan điểm hay nguyên lý là ở những hiệu quả thực tiễn mà sự vận dụng nó đem lại: “biết, đó là làm”, “biết là một hoạt động thực tiễn”;triết thuyết này ngoảnh lưng với trừu tượng, những giải pháp nói suông, những nguyên lý cứng nhắc, những hệ thống khép kín và những giá trị tuyệt đối..., nó hướng về tính cụ thể, sự đâu ra đấy, vềnhững sự kiện và hoạt động..., nó là "sự tóm lược của lòng tin Mỹ ở năng lực "biết làm" (know how), năng lực hoạt động thực tiễn và lòng ngờ vực cũng rất Mỹ đối với những lý thuyết và hệ tưtưởng trừu tượng".
Triết học (phương Tây) coi trọng sự phát lộ chân lý. Minh triết (phương Đông) coi trọng sự điều tiết quá trình (biến hóa)19.
![]() |
Nhiều trường phái triết học phương Tây chịu ảnh hưởng quan niệm của Platon về "chân lý một và duy nhất" (chân lý tuyệt đối); quan niệm của minh triết Trung Hoa: chân lý "cận nhân tình" cũng như đạo " không xa con người" (đạo bất viễn nhân). Khổng Tử nói rằng: "Đạo chẳng xa người. Người nào thi hành đạo mà lại rời xa người chẳng thể coi đó là đạo"22. Nói như Khổng Tử, chân lý xa conngười có thể coi là chân lý nữa không? Con người thì mỗi tuổi, mỗi thời, mỗi nơi một khác. Hướng về con người trừu tượng cũng là một cách xa con người. (Đôxtôievxki: "...có những kẻ họ càng yêu conngười trừu tượng bao nhiêu thì càng ghét những con người cụ thể bấy nhiêu...").
Quan hệ cá nhân và cộng đồng, một vấn đề có tính chất "kinh điển" để phân biệt bản sắc văn hóa Đông và Tây, theo cách giải trình của tác giả, không chỉ là sự thay đổi chỗ nhấn - Trung Hoa nhấnvào cộng đồng, phương Tây nhấn vào cá nhân - phạm vi của vấn đề rộng lớn hơn nhiều: phía Trung Hoa, "phúc lợi của cá nhân sinh ra từ phúc lợi của toàn thể nhóm và chính là làm việc cho lợi íchcủa nhóm mà người ta đạt được lợi ích cá nhân", còn ở phương Tây, có được phúc lợi tập thể là do mỗi cá nhân mưu cầu lợi ích riêng, quan niệm này đã được Adam Smith tóm lược trong một phương trình xãhội như sau: phúc lợi chung có thể là tổng những mưu cầu vị kỷ riêng23. Để vận hành theo phương trình này, phải có những quy tắc, những luật bảo đảm:
- Cho những quyền của cá nhân trong môi trường của cộng đồng.
- Những mưu cầu vị kỷ của cá nhân thực sự ứng với lợi ích của cộng đồng.
Những luật và quy tắc này nâng cao trình độ tổ chức xã hội, ở phương Tây chúng có tầm quan trọng cao hơn so với ở Trung Hoa. So sánh phương Tây và Trung Hoa "có một sự khác biệt cơ bản về tổ chức xãhội"24 .
![]() |
Trong tư tưởng phương Tây, tính hiệu quả được xem xét chủ yếu như là kết quả thực hiện dự án (projet), mà dự án là mô hình (modèle) lý thuyết được phóng chiếu (projeté) vào thực tại tương lai, mà môhình nào thì cũng có mục tiêu hoặc cứu cánh (fin), chung quy lại, thực hiện dự án là tìm những phương tiện (moyen) thích đáng đặng thực hiện mục tiêu của dự án và như vậy, tính hiệu quả được xem xéttrong mối tương quan phương tiện-cứu cánh: những phương tiện có thực hiện được mục tiêu của dự án không, có biến mô hình lý thuyết (tức là dự án) thành thực tại không? Cách đặt vấn đề như vậy về tínhhiệu quả phù hợp với một nếp tư duy khá cơ bản trong tư tưởng phương Tây, đó là nếp tư duy coi trọng mối quan hệ lý thuyết-thực hành.
Trong tư tưởng Trung Hoa, thực tại được xem xét như là quá trình. Trong hoạt động của con người (có hiệu quả hay không?), điều quan trọng là ở mỗi thời điểm của quá trình thực tại phải nhận ra xu thếcủa tình hình ở thời điểm đó, tiếp theo là theo dõi diễn biến của xu thế trong quá trình phát triển của thực tại. Tính hiệu quả của hoạt động của con người là ở sự biết nương theo và lợi dụng xu thếcủa tình hình (sao cho có lợi cho ta và bất lợi cho đối thủ của ta), là ở sự tác động tới tình hình, tạo ra sự biến hóa của tình hình, sự diễn biến của xu thế, tạo lập những điều kiện cho sự pháttriển dẫn tới hệ quả (mong muốn). Sự nắm bắt, nương theo và lợi dụng xu thế của quá trình phát triển của thực tại cũng giống như lợi dụng xu thế của dòng nước: xu thế của nước là chảy xuống chỗtrũng, bắt dòng nước chảy ngược lên cao thì thật là hoài công, dòng thác có sức chảy mạnh đó là do thế từ trên cao đổ xuống, biết lợi dụng cái thế này có thể tạo dòng chảy mạnh cuốn băng đi cả nhữngtảng đá lớn.
Thay lời người Trung Hoa, F.Jullien viết: "Tôi không nhằm trực tiếp hiệu quả, đem kế hoạch của tôi áp đặt trực tiếp lên sự vật..., làm như vậy không tránh khỏi tốn sức và vấp phải sự phảnkháng; mà tôi làm cho tình thế tiến triển liên tục nương theo những nhân tố mang xu thế mà tôi phát lộ, sao cho hiệu quả tuồn ra từ bản thân tình thế; nói một cách khác, chính tình thế đẻ ra kết quảđược trù liệu trước. Hoặc nếu như ngày hôm nay chẳng có gì thuận lợi cho tôi, thì tôi chờ vậy, việc gì phải đối đầu với một tình thế nghịch để mà vỡ mặt – làm như vậy chắc là đẹp rồi, anh hùng nữa làđằng khác, nhưng hiệu quả chẳng bao lăm... 25. Trong tư tưởng của phương Tây, con người hành động trực tiếp tạo ra hiệu quả, với cách suy nghĩ của Trung Hoa về tính hiệu quả, con người tác độngmột cách gián tiếp, và hệ quả tự nó đến thông qua sự tạo điều kiện cho sự biến hóa của tình thế và xu thế của tình thế. Tóm lại, tư tưởng phương Tây xem xét tính hiệu quả trong quan hệ phương tiện vàcứu cánh còn trong tư tưởng Trung Hoa vấn đề này được xem xét từ góc độ tạo điều kiện (conditionnement) và hệ quả (conséquence) tức là từ góc độ tạo quá trình dẫn đến hệ quả. Hai quan niệm về tínhhiệu quả dẫn tới hai phương thức tác động khác nhau tới thực tại. Tác động một cách gián tiếp (thông qua tạo điều kiện cho quá trình biến hóa và hệ quả tự nó đến) giống như vun gốc, bón phân tạo điềukiện cho cái cây tự nó mọc lên, khác với việc trực tiếp túm lấy cái cây và kéo nó lên.
Có liên quan đến ý niệm thế được phân tích ở trên là ý niệm mặc hóa (biến hóa lặng lẽ). Trong quan niệm của F. Jullien, hành động (action) đối lập với làm biến hóa (transformation). Phương Tây coitrọng anh hùng (héros) tạo thời thế bằng hành động; Trung Hoa đề cao nhà hiền triết (le Sage) cái thế bằng cách làm biến hóa. Hành động diễn ra trong một thời điểm nhất định, tác động vào một điểm,một chỗ được khu biệt rõ rệt, gắn với một chủ thể xác định (chủ thể hành động thường là một anh hùng hoặc một gian hùng), thông thường hành động gây ra biến cố (événement), mà biến cố thì bao giờcũng "rôm rả", "náo động", "om sòm", do đó hành động thường nổi bật, tách bạch dòng đời và tiến trình biến hóa trầm lặng của sự vật. Còn làm biến hóa, ngược lại với hành động, thì gây ra sự liên tụctăng tiến, sự lan tỏa bao trùm tổng thể (global), sự hòa lẩn vào tiến trình của sự vật, do đó khó thấy, không gây biến cố om sòm, do đó lặng lẽ, nhưng cuối cùng có hiệu quả rõ rệt, không chối cãiđược (tuổi già là một ví dụ của sự biến hóa). Lão Tử có nói đến những ông vua được "dân yêu quí và khen", nhưng trên tài họ là những ông vua trị dân mà "dân không biết là có vua", "vua côngthành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: Tự nhiên được như vậy" (xem Đạo đức kinh, Chương 17) 26. Đây là những ông vua trị dân bằng cách làm "biến hóa lặng lẽ". Họ không nổi lên như những anhhùng nhưng Lão Tử lại tôn họ vào hàng "thái thượng".
"...Tôi nghĩ rằng - F.Jullien viết - hai ý niệm này, lấy của những nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại, cũng có thể giúp tìm hiểu Trung Hoa đương đại. Bởi lẽ chính Trung Quốc hiện nay dường nhưkhông có phóng chiếu một kế hoạch nào đó lên tương lai, không có theo đuổi một cứu cánh nào đó hoặc một ý đồ đế quốc nào đó, mà ngày này qua ngày nọ ra sức khai thác tiềm thế của mình, có nghĩa là rasức lợi dụng những nhân tố thuận lợi – không kể thuộc lĩnh vực nào: kinh tế, chính trị, quốc tế và bất kể thời cơ nào - tất cả nhằm tăng cường thế lực và nâng cao địa vị trongcác quốc gia. Chỉ đến bây giờ chúng ta, phần nào sửng sốt, mới bắt đầu nhận ra những kết quả: trong vài thập kỷ, Trung Hoa đã trở thành xí nghiệp lớn nhất thế giới và trong nhiều thập kỷ nữa, tiềmlực đương nhiên sẽ ngày càng tăng trưởng. Và quá trình diễn ra, không có biến cố lớn gây tan hoang. Đặng Tiểu Bình, "người cầm lái nhỏ bé" chính là con người vĩ đại – bằng tự do hóa và trấn áp luânphiên - lặng lẽ làm biến hóa xã hội Trung Quốc, từ thể chế xã hội chủ nghĩa sang thể chế siêu tư bản chủ nghĩa mà chẳng có bao giờ tuyên bố một sự cắt đứt dứt khoát giữa hai thể chế... Hẵng cứxem cách người Trung Hoa nhập cư vào Pháp: nó lan ra từ khu phố này đến khu phố nọ, mỗi người mới đến nghĩ ngay đến việc kéo bà con họ hàng mình sang, kéo từng người một và lần lần kéo hết; những lễhội Trung Hoa năm này sang năm khác ngày càng nổi lên đáng kể và vân vân, vân vân...; nhưng sự chuyển tiếp quá liên tục đến nỗi người ta không nhận ra và do đó chẳng có căn cứ nào để mà ngăn chặn.Tóm lại, sự biến hóa này lần lần tăng tiến, quá lặng lẽ, hòa hẳn vào "tiến trình của sự vật” thành ra người ta không thấy nó. Thế rồi, bỗng dưng một hôm người ta nhận ra rằng, trong khu phố, tất cảcác cửa hàng đều là Tầu..." 27 Trong tập chuyên luận của A.Chieng, tìm hiểu những nguyên nhân tư tưởng tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong ba thập kỷ qua, từ chương này sang chương khác, tác giảnhấn mạnh những nét đặc sắc của văn hóa Trung Hoa: "coi trọng sự biến hóa”, coi trọng tinh thần thực dụng, coi trọng sự điều tiết quá trình thực tại hơn là sự phát lộ chân lý (lý thuyết), coi trọngsự thương lượng thoả đáng hơn là tranh cãi đúng sai, coi trọng cách vận dụng nguyên lý hơn là bản thân nguyên lý, coi trọng quá trình biến hóa hơn là mục đích (cuối cùng)… Đến phần lời Bạt, chia sẻsự nhấn mạnh của A.Chieng, F.Jullien đưa ra một cách nhìn tổng quát: Trung Hoa "đi bằng hai chân" - văn minh Phương Tây và văn minh Trung Hoa, trong y thuật và nghệ thuật ẩm thực của họ, "Đông" và"Tây", "trong" và "ngoài" tồn tại song song và đan xen vào nhau, họ làm chủ những thể thức quản lý phương Tây nhưng không coi nhẹ những mưu lược hiệu quả truyền thống, về mặt ngoại giao họ biết cáchứng xử trăm phần trăm phương Tây nhưng vẫn nhớ đến nguồn chiêu pháp ứng xử riêng của họ... Dĩ nhiên "coi trọng sự biến hoá" họ không hề coi nhẹ "chân lý", họ không thể không nhớ rằng trong mọi lịchsử tư tưởng không ít những trang oanh liệt được viết ra bởi cảm hứng tìm tòi, đấu tranh cho chân lý, cảm hứng "tìm cho ra sự thật" và "nói toàn bộ sự thật"...
Viết công trình "Bàn về Thực tiễn Trung Hoa cùng với Francois Jullien", André Chieng có tham vọng gì? Tham vọng chính trị? Tham vọng học thuật? Hãy xem lời trần tình của tác giả ở đoạn cuối bài Tựa:"Độc giả cũng đừng tìm trong cuốn sách này những điều xác thực, mà trái lại hẵng tìm ở đây một sự tự do. Hẵng đọc nó như người ta chơi cái trò chơi Trung Hoa được gọi là tangram28: ban đầu đây là mộthình vuông mà người ta cắt ra thành bẩy miếng hình học: tam giác, quả trám, vuông. Người ta có thể xáo trộn bẩy miếng này rồi cấu thành lại hình vuông ban đầu, nhưng người ta cũng có thể tổ hợp chúngthành nhiều hình dạng giống những con người, những con vật hoặc đồ vật. Chẳng ai lại có thể ép buộc người chơi cứ làm lại hoài cái hình vuông ban đầu lấy cớ rằng dường như chỉ nó mới là chânlý"29.
CHÚ THÍCH
1, 2, 5-8, 11-18, 20, 21, 23-25, 27-29 André Chieng, La pratique de la Chine en compagnie de F. Jullien, Grasset, 2006
3 Colloque F.Jullien, Sang Viễn Đông trở về Viễn Tây, Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr.10
4 Chine/Europe... sous la direction de Pierre Chartier et Thiery Marchaissse, PUK, 2002, tr.130
9 Nguyễn Hiến Lê, Trang Tử: Nam Hoa kinh, Nxb. Văn hóa, 1994, tr.173
10, 19 F.Jullien, Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr.167
22 Trung dung (chương 3), Chu Hy, Tứ thư tạp chú, Nxb Văn hóa thông tin, 1999, tr.105
26 Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử: Đạo đức kinh, Nxb. Văn hóa, 1994, tr.189-190
28 Ở Việt Nam được gọi là trò chơi Trí Uẩn
Nguồn: Tạp chí Tia Sáng số 21 11/2006















