Thức ăn gia súc có hoá chất bị cấm sử dụng
Cuối tháng 11 năm 2004, chị Lê Thị Đẹp, kỹ sự chăn nuôi - thú y ở quận Cái Răng (Cần Thơ) mua thức ăn hỗn hợp gà để sản xuất ngày 19/11/2004 và 29/11/2004 của công ty Naw Hope thành phố Hồ Chí Minh. Công ty này cũng có nhà máy sản xuất thức ăn gia súc trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Một ngày sau khi lô hàng thức ăn gà chở về trại, chị Đẹp cho đàn gà mái đẻ 17 tháng tuổi ăn thức ăn trở về. Bốn ngày sau, tỷ lệ gà đẻ tăng đột ngột - đạt 98% (tỷ lệ đẻ trước đó bình quân chỉ 68 - 70%). Gà đẻ nhiều và chết dần. Đàn gà mái đẻ bói cho ăn loại thức ăn này cũng đẻ nhiều, có con ngày đẻ 2 trứng. Khoảng 20 ngày sau đàn gà chết hết.
Chị Đẹp đem loại thức ăn này cho 10 con ngan và 3 con vịt ăn. Chuyện lạ tiếp tục xảy ra, vịt đẻ trứng to dị thường, có 2 lòng đỏ, thậm chí có con vừa mới ấp lại bỏ ổ và tiếp tục đẻ.
Trước hiện tượng kỳ lạ này, ngày 6-1-2005 chị Đẹp lấy mẫu ở lô thức ăn sản xuất ngày 19/11/2004 đưa đến Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm TP. HCM để kiểm nghiệm. Kết quả kiểm nghiệm cho biết trong thức ăn gà có clenbuterol hàm lượng 137,05 mcg/kg.
Lần thứ hai, ngày 18/1/2005, chị Đẹp đã cùng anh Hồ Trung Nghĩa, cán bộ quản lý vùng của công ty New Hope lấy mẫu ở cả hai lô thức ăn sản xuất ngày 19/11 và 29/11/2004 gửi đi kiểm nghiệm. Kết quả, Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm TP. HCM thông báo, hàm lượng clenbuterol trong lô thức ăn gà sản xuất ngày 19/11/2004 là 149,46 mcg/kg; còn ở lô sản xuất ngày 29/11/2004 là 142 mcg/kg.
Clenbuterol là loại hoá chất gì?
Tác dụng chữa bệnh. Clenbuterol là hoá chất dược dùng để chữa hen phế quản, viêm phế quản dạng hen hoặc mạn, viêm phế quản tràn dịch. Clenbuterol sản xuất dưới dạng viên nén hoặc siroo.
Tác dụng đối với vật nuôi. Clenbuterol thuộc nhóm chất kích thích sinh trưởng thường gọi là β-agonists; Trong nhóm này ngoài clenbuterol còn có cimatrol và salbuterol.
Năm 1984, 1985 các nghiên cứu của Baker, Dalrymple, Beerman và Jones phát hiện khi bổ sung clenbuterol và cimatrol thích hợp đối với các loại gia súc cũng phát hiện thấy các chất này có tác dụng kích thích tăng trưởng, tăng tỉ lệ nạc và giảm tỷ lệ mỡ trong thịt.
Clenbuterol thường được bổ sung vào thức ăn gia cầm vì chăn nuôi gia cầm hiện nay sử dụng thức ăn năng lượng cao cho nên thịt gia cầm ăn nhiều mỡ, mà thịt gà nhiều mỡ thì không thích hợp với người tiêu dùng.
Việc thương mại hoá các chất β-agonist làm chất phụ gia thức ăn gia súc là cơ hội lớn đối với cả người chăn nuôi, người chế biến thức ăn và người chế biến thịt.
Tuy vậy, clenbuterol rất độc. Ở châu Âu, sau khi phát hiện một số ngộ độc thực phẩm có liên quan đến clenbuterol, người ta đã cấm sử dụng clenbuterol làm chất phụ gia thức ăn gia súc.
Để giữ vững thị trường xuất khẩu thịt gà, Thái Lan cũng cấm sử dụng clenbuterol làm chất phụ gia thức ăn gia súc.
Ở nước ta, trong quyết định số 54/2002/QĐ-BNN ngày 20/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có ghi: cấm sản xuất, nhập khẩu, lưu thông và sử dụng clenbuterol, cimatrol trong sản xuất và kinh doanh thức ăn gia súc.
Những ai quan tâm đến sản xuất thịt sạch cho xã hội hoặc có ý định xuất khẩu thịt, hãy cảnh giác với các chất kích thích sinh trưởng.
Nguồn: T/c chăn nuôi, 5/05, tr 28, 29








