Tác dụng tích cực và tiêu cực do phát triển thuỷ điện trên dòng sông MêKông
Tác động tích cực:
Nhìn chung, việc xây dựng và vận hành hệ thống các công trình thuỷ điện ở thượng nguồn có thể tác động tích cực là dòng chảy vào Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sẽ được điều tiết bởi các hồ chứa thuỷ điện, lượng nước mùa khô có thể tăng lên và giảm dòng chảy mùa lũ (có nghiên cứu dự báo tăng dòng chảy mùa khô khoảng 30%, giảm 6% diện tích xâm nhập mặn và giảm 5% đỉnh lũ). Tuy nhiên, các mặt tích cực đó còn phụ thuộc vào chế độ vận hành, điều tiết của toàn bộ hệ thống hồ chứa thuỷ điện lớn trên lưu vực, nhất là chế độ vận hành của những hồ chứa thuỷ điện lớn, có ý nghĩa điều tiết và gần biên giới, và phụ thuộc ý chí chủ quan của các nước. Vì vậy, các yếu tố tích cực trên không vững chắc.
Tác động tiêu cực:
Có thể nhận định một số tác động sau:
(1) Thứ nhất, các dự án chuyển nước ở trong và ngoài lưu vực của Thái Lan, và các dự án lấy nước tưới khác ở thượng nguồn, sẽ làm giảm dòng chảy mùa khô, kéo theo diện tích xâm nhập mặn bị tăng lên, có dự báo giảm khoảng 24% dòng chảy trong tháng 4 và tăng diện tích xâm nhập mặn khoảng 7%.
(2) Thứ hai, các công trình thuỷ điện lớn sẽ chia cắt dòng sông và chế độ vận hành tích nước, xả nước của chúng sẽ quyết định chế độ dòng chảy trên dòng chính sông Mêkông. Chế độ dòng chảy vào Đồng bằng sông Cửu Long sẽ thay đổi mạnh mẽ, ngoài việc ảnh hưởng đến khả năng khai thác nước của hệ thống các công trình hiện có, còn có thể làm thay đổi, thậm chí đảo lộn các hoạt động sản xuất, đời sống của nhân dân vùng ven sông, sống phụ thuộc vào các dòng sông, làm biến đổi các hệ sinh thái phụ thuộc vào nước suy giảm khả năng di cư, sinh sản của cá và sản lượng đánh bắt cá, … và biến đổi môi trường.
Có thể ngay cả mùa lũ - mùa nước nổi đặc trưng của vùng ĐBSCL - cũng không còn, bởi vì nước về nhiều hay ít do các hồ chứa nước ở thượng lưu quyết định. Trong mùa khô, có thời điểm sẽ thiếu nguồn nước ngọt nghiêm trọng. Điều đó đã xảy ra vào mùa khô giữa tháng tư vừa qua và trong những năm tới sẽ còn tiếp tục gay gắt. Vụ Đông Xuân 2009 vừa qua, lưu lượng nước trên sông Tiền và sông Hậu chỉ đạt mức 1.600 m 3/s, so với nhu cầu của 1,5 triệu ha lúa phải là 1.700m 3/s. Vì vậy, tại khu vực duyên hải các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… nước mặn xâm nhập sâu trong đất liền có nơi tới 70 km và việc lấy nước để canh tác gặp nhiều khó khăn. Riêng ở thị xã vị Thanh (Hậu Giang), lần đầu tiên trong lịch sử, nước mặn đã xâm nhập và kéo dài 3-4 ngày liền, làm ảnh hưởng rất lớn tới việc cấp nước sinh hoạt cho nhân dân.
Nếu các đập thủy điện không có các đường di cư cho cá, thì đồng nghĩa với nguồn lợi thuỷ sản sẽ không còn. Hằng năm vào mùa lũ, một lượng cá khổng lồ di cư sinh sản cùng với nguồn cá linh, cá sặc, các loài cá quý hiếm khác như cá ho, thờn bơn, thác lác, tôm càng, mè vinh… đổ về tạo nguồn sống cho cư dân hai bờ sông. Nguồn lợi này sẽ nhanh chóng bị mất đi do các đoạn sông bị chia cắt bởi các đập ngăn nước. Ngoài ra, còn có các nguồn thuỷ sinh, rong tảo, vi sinh vật, có khả năng điều hoà, cân bằng sinh thái sẽ bị sụt giảm nghiêm trọng. Các loài quý hiếm nhanh chóng tới bờ diệt chủng như: cá heo nước ngọt Irrawaddy, cá catfish… và vô số loài cá di cư khác. Mất đi sự giàu có về sinh thái này sẽ là thảm họa.
Kinh nghiệm của thế giới về tác động của việc xây dựng các đập trên sông:
+ Theo các nhà sinh học, đập là hình thức gây tác hại lớn nhất trong số các tác động dẫn tới sự sụt giảm của các loài sinh vật nước ngọt. Khoảng 20% trong tổng số 8.000 loài sinh vật nước ngọt hiện nay đang đứng trên bờ vực tuyệt chủng.
+ Một con đập lớn dựng trên sông sẽ phá vỡ mối liên hệ tự nhiên giữa con sông và vùng đất nó chảy qua, tác động đến toàn bộ lưu vực sông và hệ thống sinh thái nó hỗ trợ; phá vỡ hệ sinh thái sông và đồng bằng thích nghi chặt chẽ với chu kỳ lũ của con sông; phá vỡ hệ động, thực vật dựa vào lũ để sinh sản, ấp trứng, di trú và giảm khả năng đưa dưỡng chất vào đất do lũ vận chuyển hàng năm.
+ Nghiên cứu của Hội Sông thế giới cho thấy các con đập trở thành tường rào ngăn chặn sự di chuyển của các loài sinh vật di trú giữa thượng nguồn và hạ lưu sông. Ví dụ như các loài cá hồi, các con đập cản trở chúng di trú lên thượng nguồn để đẻ trứng, qua đó đẩy số lượng sinh vật di trú giảm xuống.
+ Cửa sông, nơi nước ngọt chảy ra biển, là hệ thống sinh thái rất đa dạng. Khoảng 80% lượng cá con người đánh bắt được đến từ khu vực này. Việc các con đập thay đổi dòng chảy đến cửa sông là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng nguồn cá tại vịnh Mexico, biển Đen và Caspian, vịnh San Franciscoở California … Sự xuất hiện của con đập Akasombo đã huỷ diệt ngành đánh bắt trai sò một thời vô cùng hưng thịnh ở cửa sông Volta, và khiến số lượng các loài cá nhồng ở đây giảm hẳn.
+ Các con đập cũng làm thay đổi nhiệt độ nước sông, qua đó tạo ra môi trường phi tự nhiên đối với các loài sinh vật địa phương. Các nghiên cứu cho thấy số lượng cá hồi trên sông Towy (Xứ Wales) sụt giảm mạnh có liên quan đến sự thay đổi nhiệt độ nước sông do đập Llyn Brianne, xây trong thập niên 1969 gây ra. Vấn đề tương tự cũng xảy ra ở sông Rắn và vùng Klamath (bang Oregon , Mỹ).
+ Ở Mỹ, nơi có 5.500 con đập, chính quyền đã ngừng xây đập từ giữa thập niên 1990 và đang phải dành những khoản chi phí lớn để giải quyết những vấn đề lớn do các con đập gây ra.
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy 58% các dự án thủy điện trên thế giới được lên kế hoạch và xây dựng mà không hề tính đến tác động môi trường, kể cả khi cá tác động này có thể dẫn đến tình trạng ô nhiễm, xói mòn nghiêm trọng…
(3) Thứ ba, lượng phù sa, bùn cát về Đồng bằng sông Cửu Long sẽ giảm mạnh (có nghiên cứu dự báo mức giảm khoảng 40%), làm suy giảm tính đa dạng, mức độ phong phú của hệ sinh thái thuỷ sinh, giảm mức độ cung cấp các chất phú dưỡng cho đồng bằng,… điều đó có tác động to lớn đến chế độ canh tác và các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái toàn bộ vùng đồng bằng và vùng cửa sông, cửa biển.
Các nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy, việc xây dựng các hồ chứa trên sông sẽ phá vỡ hệ sinh thái và cắt đứt các nguồn trầm tích của sông, như: phá vỡ mối liên hệ tự nhiên giữa con sông và vùng đất nó chảy quan, tác động đến toàn bộ lưu vực sông và hệ sinh thái nó hỗ trợ; phá vỡ hệ sinh thái trên sông và đồng bằng, vốn thích nghi chặt chẽ với chu kỳ lũ của con sông; phá vỡ hệ động, thực vật dựa vào lũ để sinh sản, ấp trứng, di trú…Bên cạnh đó, các hồ chứa trên sông còn làm suy giảm các loại trầm tích xuống đáy hồ, cho phép sự hình thành bờ sông, châu thổ, phù sa, hồ, đê tự nhiên, đường bờ biển… và làm giảm chất dinh dưỡng bồi đắp cho các vùng đồng bằng do lũ bồi đắp hàng năm.
(4) Thứ tư, tăng mức độ lệ thuộc vào các nước ở thượng lưu. Việc vận hành tính nước, xả nước của các hồ chứa thuỷ điện do các nước quyết định và lượng nước về Đồng bằng sông Cửu Long (chiếm gần 60% lượng nước của nước ta) sẽ do các nước thượng lưu điều tiết. Đây là một bất lợi của nước ta mà các nước khác có thể sử dụng làm đối trọng trong các mối quan hệ hợp tác khác.
Nguồn nước các sông quốc tế của Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc đảm bảo an ninh nguồn nước, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, trong đó quan trọng nhất là sông MêKông và sông Hồng. Nguồn nước xuyên biên giới trên các sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long đang và sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào việc điều tiết, vận hành của các hồ chứa nước ở phía thượng nguồn, Việt Nam hoàn toàn bị động.
Hiện nay, các nước ở thượng lưu hai sông lớn nêu trên đang khai thác mạnh mẽ nguồn nước trên các sông đó. Trong thời gian tới, do yêu cầu phát triển, các nước sẽ tăng cường xây dựng các công trình thuỷ điện, chuyển nước và các công trình cấp nước tưới để khai thác những vùng đất đai rộng lớn chưa được khai phá (Lào và Campuchia, hiện đang có xu hướng cho các quốc gia khác thuê những vùng đất rộng lớn để canh tác). Khai thác tài nguyên để phát triển là xu thế tất yếu, Việt Nam ở cuối nguồn sẽ chịu nhiều tác động. Mặt lợi có thể là giảm mức độ khắc nghiệt của lũ và hạn nhưng không vững chắc.