Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 21/10/2011 20:08 (GMT+7)

Tác động của toàn cầu hoá đối với thực hiện bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam

1. Tác động đến quan hệ hôn nhân và cuộc sống gia đình

Dưới tác động của những biến động kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới và của TCH, quan niệm về hôn nhân gia đình đã có sự chuyển biến. Mức độ ảnh hưởng của cha mẹ đối với quyết định hôn nhân của con cái đã giảm đáng kể: 28,5% số người từ 61 tuổi trở lên cho biết, cuộc hôn nhân của họ là do cha mẹ quyết định hoàn toàn, trong khi chỉ số này ở những người trong độ tuổi từ 18-60 là 7,3% (1). Mức độ ảnh hưởng của cha mẹ đối với hôn nhân của con cái thấp hơn ở các nhóm tuổi trẻ sinh sống ở đô thị, mức sống cao, nam giới và trình độ học vấn cao. Hôn nhân tự do dựa trên tình yêu đối lứa được đề cao. Xu hướng phổ biến là cha mẹ và con cái cùng tham gia quyết định hôn nhân của con mà cụ thể là con cái hỏi ý kiến bố mẹ và đưa ra quyết định. Xu hướng này kết hợp được lợi ích của cá nhân và gia đình, vì vậy chắc chắn còn tồn tại lâu dài ở Việt Nam , nhất là ở khu vực nông thôn. Những điều này đã góp phần tạo ra sắc thái mới, tích cực trong quan hệ vợ chồng như tự chủ, dân chủ và bình đẳng. Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề này cũng đang gặp phải những thách thức. Tự do cá nhân được đề cao, các chuẩn mực của thiết chế gia đình bị giảm thiểu, thiết chế gia đình tương đối độc lập, không phụ thuộc nhiều vào thiết chế xã hội, do đó, quan hệ hôn nhân gia đình lỏng lẻo, thậm chí tình trạng sống chung, sinh con mà không kết hôn ngày càng tăng.

TCH tạo ra nhiều cơ hội mới để các nước xích lại gần nhau, có điều kiện tìm hiểu giao lưu, kết nối và trao truyền những giá trị văn hoá… TCH cũng mở rộng thị trường lao động ra phạm vi toàn cầu, tạo ra những điều kiện mới cho xuất khẩu lao động ở mọi cấp độ, từ lao động trình độ cao đến lao động phổ thông. Sự di cư tự do và xuất khẩu lao động là động lực và môi trường mới để hình thành các cuộc hôn nhân đa sắc tộc. đây là một hiện tượng xã hội cần được quan tâm. Tuy nhiên, có những cuộc hôn nhân với người nước ngoài mang mầu sắc vụ lợi và không xuất phát từ tình yêu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lối sống, quan niệm về gia đình của dân tộc Việt Nam . Đây là một vấn đề phức tạp, cần được nghiên cứu sâu sắc và đưa ra những quy định kịp thời kể cả thay đổi hoặc bổ sung một số điều khoản của luật pháp hôn nhân di cư có yếu tố nước ngoài.

Trong môi trường TCH, kinh tế thị trường, hoạt động của con người tập trung nhiều vào công việc và các hoạt động khác bên ngoài gia đình. Áp lực của công việc, lợi nhuận và cạnh tranh toàn cầu làm giảm thời gian dành cho việc chăm sóc gia đình - một nhu cầu thiết yếu đối với các thành viên trong gia đình, đặc biệt là những đối tượng như trẻ em, người già, người bị ốm đau… và tạo ra những bất bình đẳng mới trong quan hệ gia đình. Mặt trái của TCH gây ra những xung đột mới trong gia đình thời hiện đại trên cơ sở giới. Ở đô thị, bất đồng giữa vợ và chồng chủ yếu từ cách ứng xử giữa hai người; ở nông thôn chủ yếu từ lý do kinh tế. Rõ ràng là, sự mở rộng cơ hội phát triển tự do cá nhân của nam giới cũng như của phụ nữ. Sự xung đột trong quan hệ vợ chồng bắt nguồn từ xung đột về vai trò của gia đình, trong giai đoạn đổi mới kinh tế. Tỷ lệ ly hôn ngày một tăng một phần do quan niệm xã hội về ly hôn không nặng nề như trước. Tỷ lệ hôn nhân ở thành thị cao hơn ở nông thôn (3,3% so với 2,4%). Trong đó, cao nhất là ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 4%), thấp nhất là ở Tây Bắc (gần 1%). Có 4 nguyên nhân thường gặp là mâu thuẫn về lối sống (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); bạo lực gia đình (6,7%) (2). Điều đáng lưu ý là trong những năm gần đây, tỷ lệ phụ nữ đứng đơn xin ly hôn cao gần gấp đôi so với nam giới (47% so với 28,1%) (3). Điều này cho thấy phụ nữ ý thức hơn về quyền của mình và sự chủ động của họ trong cuộc sống hôn nhân tăng.

Những năm gần đây bạo lực gia đình nổi lên như là một trong những vấn đề cần nhận được nhiều sự quan tâm, lo lắng của dư luận xã hội. Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, thì bạo lực gia đình chiếm 53,1% trong số nguyên nhân dẫn tới ly hôn (4). Tình trạng bạo lực xảy ra với cả người vợ và người chồng. Tuy nhiên, người chồng vẫn là chủ thể chính gây ra bạo lực với các hình thức nghiêm trọng như đánh, mắng chửi, ép quan hệ tình dục… Tỷ lệ chồng đánh vợ chiếm 3,4% trong khi tỷ lệ vợ đánh chồng là 06% (5). Bạo lực gia đình gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng mà trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Bạo lực gia đình cũng làm xói mòn các giá trị truyền thống tốt đẹp, là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống, tác động xấu đến môi trường giáo dục thế hệ trẻ, ảnh hưởng đến sự an toàn, lành mạnh của cộng đồng và trật tự xã hội…

Nạn mại dâm đang có xu hướng tăng lên ở nước ta. Tình trạng thiếu việc làm đã đẩy một số phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn đi vào con đường mại dâm. Mại dâm đặc biệt là mại dâm trẻ em gây hậu quả nặng nề cho gia đình và xã hội, xúc phạm nhân phẩm, đe dọa tính mạng của nhiều người bởi nó gắn liền với các bệnh tật nguy hiểm, trong đó có HIV/AIDS.

2. Tác động đến phân công lao động trong gia đình

Cùng với những biến đổi trong cơ cấu lao động xã hội dưới tác động của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, quá trình CNH, HĐH đất nước đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm và những biến chuyển trong phân công lao động trong gia đình, nhất là giữa vợ và chồng theo xu hướng ngày càng bình đẳng, tiến bộ. Mức độ bình đẳng giới trong sự phân công này được ghi nhận ở những khía cạnh sau:

Trong hoạt động sản xuất và tiêu dùng. Ở xã hội truyền thống trước kia, trong gia đình, những công việc quan trọng, nặng nề do người đàn ông làm là chính, phụ nữ chỉ đảm nhận những phần việc nhỏ, lặt vặt, nhẹ nhàng trong nhà. Do quan niệm lỗi thời tồn tại trong suốt thời gian dài nên sau này trong quá trình xây dựng xã hội mới, dù người phụ nữ có đóng góp nhiều công sức để tạo thu nhập cho gia đình trên thực tế sự đóng góp ấy vẫn không được nhìn nhận một cách bình đẳng, công bằng với nam giới. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, dưới tác động của TCH kinh tế và những chính sách kinh tế mới, chính sách về giới và lồng ghép giới vào các chương trình kinh tế - xã hội của địa phương cùng với công tác tuyên truyền về bình đẳng giới được quan tâm thì sự phân công lao động trong gia đình đã có chuyển biến tích cưc theo hướng tiến bộ và bình đẳng. Người phụ nữ không còn bị bó hẹp trong lĩnh vực nội trợ mà đã vươn lên làm kinh tế, tăng thu nhập cho gia đình và tham gia các hoạt động xã hội. Từ những hoạt động đó, họ thấy được vai trò, giá trị của bản thân và ý thức được vị thế và quyền cá nhân của mình.

Song, vẫn còn những thách thức đặt ra trong hoạt động sản xuất và tiêu dùng đối với người phụ nữ. Phần lớn phụ nữ nước ta làm nghề nông, cứ 100 lao động nữ thì có 46 người làm nông nghiệp, chỉ số này ở nam là 39. Trong đó, tỷ lệ nữ sản xuất ở hộ gia đình cũng cao hơn so với nam (63% so với 53%) (6). Do đó, khi nước ta thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu, hạn chế các khoản chi hỗ trợ trực tiếp cho nông dân theo cam kết của WTO, mở rộng nhập khẩu nông sản thì nguy cơ phá sản hoặc thu nhập bấp bênh đối với nữ là cao hơn so với nam. Với tư cách là người tiêu dùng, phụ nữ có nhiều cơ hội hơn song cũng gặp nhiều thách thức hơn, bao giờ hết. Chất lượng và chủng loại hàng hóa ngày càng đa dạng, hệ thống quảng cáo ngày càng tinh vi đòi hỏi người tiêu dùng không chỉ đơn giản là đi và mua, mà phải là người mua thông minh. Đứng trước các loại bao bì, nhãn mác, thành phần hóa chất, dinh dưỡng… phụ nữ đang mất nhiều thời gian và trí tuệ hơn trước để lựa chọn và quyết định nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng phức tạp của các thành viên gia đình.

Lao động gia đìnhđược hiểu là công việc nội trợ, chăm sóc con cái, người ốm… Trong xã hội truyền thống, người ta thường cho rằng đây là công việc lặt vặt, không có giá trị, không được trả lương vì không đem lại thu nhập. Định kiến giới trong vấn đề này đã khiến phụ nữ trên toàn thế giới, dù đã phần nào bình đẳng với nam giới về việc làm và thu nhập, vẫn tiếp tục là người đảm nhận chính công việc này. Kết quả là xuất hiện bất bình đẳng mới trong gia đình. Thách thức của bất bình đẳng này không phải là phụ nữ không được tham giao vào quá trình sản xuất xã hội, tham gia thị trường lao động có thu nhập, mà là ở chỗ sau khi làm việc và kiếm thu nhập như nam giới, phụ nữ lại phải gánh vác phần lớn trách nhiệm gia đình. Hậu quả là "vai trò kép" là, trong xã hội hiện đại, nhiều phụ nữ không muốn kết hôn, không muốn nuôi con và làm mẹ. Vấn đề độc thân hình thức chung sống khác giới, sống thử, hôn nhân theo hợp đồng, gia đình không con, gia đình đồng tính đã xuất hiện trong xã hội công nghiệp và có xu hướng tăng lên trong thời đại TCH. Ở Việt Nam hiện nay, nhận thức vấn đề này cũng đã có những tiến bộ bước đầu, những công việc gia đình dần được gia đình, xã hội và nhất là nam giới nhận thức một cách khách quan và có sự chia sẻ. Nam giới tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc gia đình và xu hướng nam và nữ cùng tham gia, nhất là trong những hộ gia đình trung bình và khá giả, hoặc có học vấn cao, đang gia tăng.

Quá trình TCH kinh tế hiện nay đã tác động đến lao động gia đình, khiến lao động gia đình trở thành nhu cầu thiết yếu của nhiều gia đình, nhất là ở những đô thị lớn. Vì vậy, lao động gia đình trở thành một nghề, mạng lưới giới thiệu lao động gia đình hoạt động ở cấp độ cá nhân, cũng như trung tâm được hình thành. Nó góp phần làm biến đổi công việc trong gia đình từ công việc không được trả công sang công việc được trả công. Quá trình này đã tác động tiêu cực đến việc giải phóng phụ nữ khỏi công việc nội trợ mà bấy lâu nay vẫn đè nặng lên vai họ. Tuy nhiên, luật pháp chưa thừa nhận đó là một nghề và không có điều luật để ràng buộc, bảo vệ cả người làm thuê lẫn người chủ thuê. Điều này dẫn tới một nghịch lý là: lao động giúp việc gia đình đã đưa tới nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng thu nhập cho gia đình nghèo, nhưng bản thân những người làm ra nó thì không được hưởng quyền lợi gì từ phía pháp luật. Điều này, xét dưới một góc độ khác là nguy hiểm đối với phụ nữ làm công việc này. Hiện nay, một số phụ nữ đi làm công việc gia đình ở nước ngoài bị đối xử bất bình đẳng, bị coi thường, thậm chí bị hãm hiếp, giết chết mà chưa được ngăn chặn kịp thời.

Như vậy, quá trình TCH kinh tế tác động, thúc đẩy và làm nổi bật giá trị của lao động gia đình. Lao động gia đình dần được nhìn nhận, đánh giá thực sự có giá trị kinh tế trong đời sống gia đình và đóng góp vào sự phát triển xã hội. Cùng với sự phát triển các dịch vụ gia đình sẽ góp phần vào "giải phóng" phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới.

3. Tác động đến việc tạo lập sự công bằng về cơ hội tiếp cận, quản lý và sử dụng các nguồn lực phát triển của gia đình

Về tiếp cận, quản lý tài sản lớn như nhà ở, đất đai, vốn. Trước đây, theo truyền thống, người đứng tên chủ sở hữu các tài sản như đất đai, nhà ở, thường là chủ hộ gia đình, mà phần lớn là nam giới. Điều này giải thích phần nào lý do người chồng có tiếng nói và quyền quyết định cao hơn người vợ trong công việc quan trọng của gia đình.

Hiện nay, tác động của TCH cũng như chính sách của Nhà nước mang lại cho phụ nữ ngày càng nhiều quyền sở hữu các tài sản của hộ gia đình. Trong phần lớn các gia đình ở thành phố, đô thị, cả vợ và chồng cùng đứng tên chủ sở hữu. Tuy nhiên, ở những gia đình nông thôn, nhất là khu vực miền núi, dân tộc thiểu số thì sự biến đổi không đáng kể. Trên thực tế, chủ hộ trong gia đình là người chồng, vì vậy, người chồng cũng đứng tên trong các giấy chứng nhận quyền sở hữ đất. Người phụ nữ - người vợ mặc dù có vai trò quan trọng trong sản xuất và trong quản lý kinh tế gia đình, nhưng họ lại không phải là chủ sở hữu các tài sản lớn, không được đứng tên trong các giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất, quyền sử dụng đất nên gặp khó khăn trong quá trình sản xuất và quản lý kinh tế gia đình. Trong những quyết định liên quan tới việc sử dụng và quản lý đát đai, ý kiến của phụ nữ không được đánh giá cao so với ý kiến của nam giới. Thực tế, có nhiều trường hợp, ý kiến của phụ nữ không được đánh giá cao so với ý kiến của nam giới. Thực tế, có nhiều trường hợp, khi gia đình có "vấn đề", cần phải phân chia tài sản thì người phụ nữ luôn phải chịu thiệt thòi.

Về tiếp cận nguồn thông tin, kiến thức. Trước đây, do phải đảm nhiệm nhiều công việc gia đình, trình độ học vấn hạn chế nên phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận thông tin, kiến thức. Những năm gần đây, thông qua các chương trình, dự án của Nhà nước cũng như của các tổ chức phi chính phủ, phụ nữ đã có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận thông tin, kiến thức. Các chương trình khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông nghiệp rất có ý nghĩa đối với phụ nữ vì họ là người trực tiếp trồng trọt, chăn nuôi. Việc tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ thông qua các khóa tập huấn hoặc các kênh cung cấp thông tin về thị trường, giới thiệu việc làm, kiến thức xây dựng gia đình hạnh phúc và chăm sóc sức khỏe sinh sản có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế gia đình cũng như cải thiện vai trò giới, nâng cao vị thế cho phụ nữ, hướng tới bình đẳng giới trong lĩnh vực này.

Tiếp cận, quản lý, kiểm soát và sử dụng các nguồn lực phát triển của gia đình một cách tự chủ không chỉ là điều kiện, mà còn là cơ hội để phụ nữ phát huy được tiềm năng vốn có của mình để phát triển kinh tế gia đình. Đó cũng là cơ hội để phụ nữ từng bước khẳng định vai trò của mình, qua đó mà thiết lập vị thế của mình trong đời sống gia đình và xã hội.

4. Tác động đến quyền quyết định những công việc trọng đại của gia đình

Trong gia đình truyền thống trước đây, nam giới thường là người đưa ra những quyết định trọng đại. Công cuộc đổi mới đất nước và TCH đã thúc đẩy quá trình dân chủ, bình đẳng trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Vị thế của nam giới và nữ giới đều có những biến đổi theo hướng tiến bộ, dân chủ, bình đẳng. Xu hướng vợ và chòng cùng nhau bàn bạc và đi đến quyết định chung thể hiện rõ nét. TCH đã mang lại nhiều cơ hội cho phụ nữ nâng cao nhận thức và họ đã dần khẳng định mình, chủ động trao đổi với chồng để đi đến quyết định các vấn đề trong sản xuất, vay vốn, tiếp cận dịch vụ….

Trong xã hội cũ, do ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo và những định kiến giới, phụ nữ thường bị yếu thế trong thực hiện kế hoạch hóa gia đình, sử dụng biện pháp tránh thai, quyền quyết định số con, khoảng cách sinh, thời điểm sinh. Ngày nay, một mặt, do tác động từ phía chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, mặt khác, do tác động tích cực của TCH nên nhận thức về những vấn đề như thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của các cặp vợ chồng đã tăng lên. Tuy nhiên, tác động tích cực này chủ yếu là ở khu vực thành thị, nhóm hộ giàu, nhóm gia đình mà người vợ tham gia nhiều vào việc quyết định những công việc quan trọng của gia đình. Ở khu vực nông thôn, miền núi và nhóm hộ nghèo vẫn còn những rào cản về nhận thức, phong tục tập quá… làm cản trở quá trình thực hiện bình đẳng giới về quyền quyết định những công việc trọng đại trong gia đình nói riêng và bình đẳng giới nói chung.

Để phát huy những cơ hội và khắc phục những vấn đề mà quá trình TCH mang lại đối với thực hiện bình đẳng giới trong gia đình, cần phải thực hiện những giải pháp đồng bộ sau:

- Tích cực hoàn thiện hệ thống pháp lý về gia đình, tạo cơ sở cho việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.

- Tiếp tục nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới trong gia đình cho các tầng lớp cư dân xã hội và trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp.

- Thực hiện lồng ghép giới trong xây dựng và thực hiện pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia về gia đình và bình đẳng giới.

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo tiền đề cơ sở vật chất để đảm bảo và nâng cao chất lượng sống cho mọi thành viên trong gia đình - là điều kiện cần thiết để thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.

Chú thích:

(1),(2) Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch; Tổng cục Thống kê; Unicef; Viện Gia đình và Giới: Báo cáo tóm tắt Điều tra gia đình Việt Nam, năm 2008, tr.22, 21

(3) Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý: Gia đinh học, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2007, tr.351

(4) Theo Báo cáo của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hộinăm 2006.

(5) Theo Báo cáo Điều tra gia đình Việt Nam 2008, tr.41

(6) Viện Khoa học xã hội Việt Nam : Báo cáo phân tích số liệu điều tra về bình đẳng giới, 2007.

Xem Thêm

Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Thanh Hoá: Phản biện Đề án phát triển Viện Nông nghiệp tỉnh
Sáng ngày 06/05, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo phản biện “Đề án Phát triển Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, giai đoạn 2026 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Đề án) với sự tham dự của hội đồng phản biện, các chuyên gia của Liên hiệp hội và đại diện ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Đảng ủy LHHVN tổ chức Lễ trao huy hiệu Đảng và Hội nghị chuyên đề "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"
Ngày 3/6, tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng đợt 19/5/2025 và Hội nghị chuyên đề Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".