Suy nghĩ về những liên hợp luyện thép lớn đang được đầu tư ở Việt Nam
Phân tích những diễn biến của tình hình trên có thể là do những nguyên nhân sau:
- Nền kinh tế của Việt Nam thời gian qua có mức tăng trưởng cao và ổn định trong nhiều năm. Tăng trưởng GDP luôn duy trì ở mức 8 – 8,5%. Năm 2008 mặc dù gặp nhiều khó khăn do kinh tế toàn cầu có nhiều biến động bất lợi và do lạm phát trong nước tăng cao, nhưng bằng nhiều biện pháp kiềm chế lạm phát, mức tăng trưởng GDP năm nay vẫn có thể giữ ở mức 7%.
- Mức tiêu thụ thép tính theo đầu người ở Việt Nam mới ở mức. Trong khi dân số Việt Nam trên 86 triệu với mục tiêu xây dựng ở Việt Nam trở thành nước công nghiệp, Việt Nam trong tương lai sẽ là 1 thị trường tiêu thụ thép lớn, Việt Nam hiện mới chỉ sản xuất chủ yếu là các sản phẩm dài (khoảng 4 triệu tấn/ năm), các sản phẩm dẹt (tấm, lá) thép chế tạo hầu hết phải nhập khẩu. Hạ tầng cơ sở của Việt Nam trở thành nước công nghiệp, buộc chúng ta phải đầu tư vào đường xá, cầu cống, cảng biển, đường cao tốc, đường sắt… là những công trình cần số lượng thép rất lớn.
- Với tầm nhìn chung và dài hạn của các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng phát triển, lượng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của các nước vào các công trình công nghiệp và dân dụng vẫn ngày một tăng. Việc triển khai thực hiện các dự án lớn đòi hỏi nguyên vật liệu (trong đó có thép) sẽ rất lớn.
- Nguồn viện trợ ODA của các nước cho Việt Nam những năm gần đây cũng tăng mạnh. Năm 2007 là 4,4 tỷ USD, năm 2008 sẽ lên đến 5,4 tỷ USD và sử dụng nguồn vốn này chủ yếu cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng nên nhu cầu thép cũng tăng cao.
- So với các nước trong khu vực, Việt Nam cũng có 1 số điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp luyện kim như có bờ biển dài, nhiều vị trí có thể xây dựng cảng biển nước sâu, có thể tiếp nhận tầu tải trọng lớn 200.000 – 400.000 tấn. Việt Nam có mỏ quặng sắt tương đối lớn, có trữ lượng than antraxit lớn, có dầu khí… nên có điều kiện để phát triển công nghiệp luyện kim.
Những liên hợp luyện thép đã được khởi động xây dựng ở Việt Nam trong thời gian gần đây:
1. Nhà máy Liên hợp thép Formosa – Sunco ở Vũng Áng (Hà Tĩnh)
Nhà máy được Ban quản lý khu CN Hà Tĩnh cấp giấy phép đầu tư ngày 11/6/2008. Đây là nhà máy liên hợp thép 100% vốn đầu tư của Đài Loan do 2 đối tác là Tập đoàn Formosa chuyên sản xuất hóa dầu. Plastic (95% vốn) và công ty Sunco (5%). Công suất dự kiến của Liên hiệp là 15 triệu tấn/ năm trên diện tích 3,035 ha. Công suất của giai đoạn 1 là 7,5 triệu tấn/ năm với cơ cấu sản phẩm là:
- Phôi thép vuông 1,50 triệu tấn/ năm
- Phôi thép dẹt 2,25 triệu tấn/ năm
- Cuộn cán nóng 2,00 triệu tấn/ năm
- Cuộn cán nóng có tẩy rửa và phủ dầu 0,45 triệu tấn/ năm
- Tấm cán nóng 0,25 triệu tấn/ năm
- Dải cán nóng 1,05 triệu tấn/ năm
Chưa đầy 1 tháng sau khi nhận được giấy phép đầu tư, ngày 6 – 7 – 2008 lễ động thổ nhà máy đã được tiến hành với sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Thời gian dự kiến: sau 36 tháng (2011) sẽ hoàn thành xây dựng lò cao số 1 và cảng biển. Sau 48 tháng (2012) sẽ hoàn thành lò cao số 2. Cảng biển có thể tiếp nhận tàu 200.000 – 300.000 DWT với khả năng bốc dỡ 30 triệu tấn/ năm.
Tổng vốn đầu tư giai đoạn I là 7,8 tỷ USD.
Giai đoạn 2: các nhà đầu tư Đài Loan sẽ nâng công suất Liên hợp lên gấp 2 (là 15 triệu tấn/ năm) và sẽ xây dựng nhà máy điện để tự cung cấp điện cho khu Liên hợp.
2. Nhà máy Liên hợp thép Tycoon – E.United ở Dung Quất (Quảng Ngãi)
Nhà máy Liên hợp này được cấp giấy phép đầu tư năm 2006. Ban đầu là Liên doanh giữa Tycoon (Đài Loan) và Jinnan (Trung Quốc), với công suất 5 triệu tấn/ năm và tổng đầu tư công bố hơn 1 tỷ USD. Với suất đầu tư quá nhỏ tính cho 1 tấn công suất đã gây nghi ngờ về tính hiện thực của dự án. Sau 1 thời gian, Cty Jinnan (Trung Quốc) rút khỏi dự án và thay vào đó là cty E- United (Đài Loan) với 90% vốn, chỉ còn lại 10% của Tycoon, trở thành Liên hợp 100% vốn Đài Loan và đã đưa tổng mức đầu tư cho Liên hợp lên trên 3 tỷ USD.
Tháng 10 – 2007 đã tiến hành động thổ.
Công suất giai đoạn 1 của Liên hợp là 3 triệu tấn/ năm bao gồm:
- 0,5 triệu tấn/ năm phôi vuông
- 2,5 triệu tấn/ năm cuộn cán nóng
Có thông tin các công ty Đài Loan đang tiếp tục dàn xếp nguồn vốn vay để thực thi dự án.
Những liên hợp luyện thép đang trong giai đoạn chờ giấy phép đầu tư
1. Dự án Liên hợp thép Liên doanh giữa VnSteel và Tập đoàn TaTa (Ấn Độ)
Bản ghi nhớ giữa 2 công ty được ký kết vào tháng 5 – 2007, hai công ty bắt đầu tiến hành lập luận chứng khả thi cho nhà máy Liên hợp thép tại Hà Tĩnh, dựa trên nguyên liệu quặng sắt mỏ Thạch Khê với công suất dự kiến 4,5 – 5 triệu tấn thép/ năm.
Thời gian hoàn thành luận chứng (F/S) dự kiến là 16 tháng, tính từ tháng 6 – 2007. Nhưng sau đó 2 bên đã thống nhất đẩy nhanh tiến độ để có thể hoàn thành F/S vào tháng 9 – 2008.
Trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. VnSteel và Tập đoàn TaTa đã ký kết liên doanh với sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam .
Cuối năm 2007, thêm một bản ghi nhớ được ký kết giữa 2 bên về việc thiết lập nhà máy cán nguội ở Vũng Áng (Hà Tĩnh), dự án này được coi là một phần của dự án nhà máy liên hợp.
Hiện tại 2 đối tác đang thảo luận vấn đề cung cấp ổn định quặng sắt Thạch Khê cho liên hợp, khi liên hợp hình thành và đi vào sản xuất. Công ty mỏ quặng sắt Thạch Khê là công ty cổ phần, trong đó cổ phần của VnSteel chỉ có 20%. Việc tham gia của đối tác nước ngoài vào các dự án mỏ theo Quy định của Chính phủ Việt Nam là không quá 30%. Khi liên hợp vận hành hết công suất, nhu cầu quặng sắt hàng năm của Liên hợp khoảng 10 triệu tấn/ năm. Việc bảo đảm cung ứng ổn định 10 triệu tấn quặng/ năm là điều kiện bảo đảm tính hiện thực của dự án liên hợp VnSteel – TaTa.
2. Liên hợp thép liên doanh giữa Tập đoàn thép Posco (Hàn Quốc) và Vinashin (Việt Nam ) dự kiến đặt ở vịnh Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa):
- Công suất dự kiến giai đoạn 1: 4 triệu tấn/ năm
- Sản phẩm là thép tấm và cuộn cán nóng (HRC)
- Công nghệ áp dụng cho Liên hợp là công nghệ Finex là công nghệ mới của Hàn Quốc, vừa được công bố và dưa vào áp dụng quy mô công nghiệp năm 2006 (sẽ xây dựng 2 môđun Finex, mỗi môđun công suất 2 triệu tấn/ năm.
Việc lựa chọn vịnh Vân Phong để đặt nhà máy liên hợp nhằm tận dụng địa thế thuận lợi, không cần xây đập chắn sóng. Vịnh có mực nước sâu, có thể xây cảng tiếp nhận tầu 400.000 DWT, nhưng liên hợp đang gặp khó khăn về vị trí đặt nhà máy, do ở đây đã có quy hoạch cho cảng trung chuyển container của Bộ Giao thông vận tải và vịnh Vân Phong, Khánh Hòa cũng là khu du lịch của Việt Nam.
Tháng 6 – 2008, VinaShin đã rút khỏi dự án vì lý do tập trung vốn cho các dự án trọng điểm khác, nên dự án trên sẽ là 100% vốn của Posco (Hàn Quốc).
Đầu tháng 6 – 2008, bản dự án của Posco đã được đệ trình Chính phủ Việt Nam chờ giấy phép đầu tư.
3. Liên hợp thép liên doanh giữa Tập đòan Lion Group ( Malaysia ) và VinShin
Bản ghi nhớ MOU đã được ký kết trong chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Malaysia vào cuối năm 2006. Nhà máy đặt tại tỉnh Ninh Thuận, công suất dự kiến 4,5 triệu tấn/ năm, bao gồm:
- Nhà máy thiêu kết: 5,5 triệu tấn/ năm
- Nhà máy quặng vê viên: 1,2 triệu tấn/ năm
- Nhà máy luyện than cốc: 1,2 triệu tấn/ năm
- 2 lò cao 2580m3
- Lò thổi oxy 220 tấn/ mẻ
Liên hợp sẽ sản xuất 4,8 triệu tấn thép thô/ năm và sản phẩm cuộn cán nóng (HRC) 4,5 triệu tấn/ năm. Hiện nay vẫn chưa rõ VinaShin có tiếp tục tham gia liên doanh hay sẽ rút khỏi Liên doanh như đã làm với dự án của Posco (Hàn Quốc).
Một số điều suy nghĩ
1. Nếu như các dự án nhà máy liên hợp luyện kim lớn nêu trên trở thành hiện thực thì sau 5 hay 7 năm nữa, ngành công nghiệp thép Việt Nam có bước tiến vượt bậc đáng kinh ngạc, với tổng công suất vài chục triệu tấn/ năm, nhưng theo tôi điều này hơi khó, vì các nhà đầu tư buộc phải cân nhắc đến nhu cầu thực tế của thị trường Việt Nam và thị trường các nước khu vực trong tương lai để quyết định đầu tư. Có lẽ với thị trường Việt Nam và các nước trong khu vực, việc có thêm 2 nhà máy liên hợp công suất 5 – 10 triệu tấn/ năm trong 5 năm tới là thích hợp. Nếu quá nhiều nhà máy liên hợp ra đời sẽ dẫn tới cung vượt cầu quá lớn, sự cạnh tranh sẽ khốc liệt và điều thua thiệt sẽ rơi vào các công ty thép nhỏ và vừa của Việt Nam, vì các công ty này vừa mới đầu tư và đang còn gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập.
2. Trong số 5 dự án liên hợp lớn nêu trên, chỉ có 1 dự án có vai trò của Việt Nam là dự án của VnSteel và TaTa, nhưng cũng đang có khó khăn về sở hữu quặng mỏ Thạch Khê, còn lại là các liên hợp 100% vốn của nước ngoài. Điều này có thể làm Việt Nam ít bị rủi ro khi phải đầu tư vào ngành thép là ngành cần lượng vốn cực lớn, xây dựng lâu và ít lãi so với ngành khác, nhưng với một ngành quan trọng mà sản phẩm có liên quan đến hầu hết các ngành kinh tế và quốc phòng của đất nước, thì toàn bộ liên hợp là vốn FDI của nước ngoài, sẽ làm cho vai trò của nước chủ nhà là Việt Nam trong ngành công nghiệp quan trọng này sẽ không có. Kinh nghiệm Trung Quốc chỉ cho phép nước ngoài đầu tư vào ngành thép không quá 30%, không cho đầu tư vào ngành thép nếu không có công nghệ mới, không cho đầu tư liên hợp cũng là điều nên tham khảo.
Việt Nam trong tương lai vẫn cần có liên hợp thép mạnh như Trung Quốc có Bảo Sơn, Hàn Quốc có Posco, Đài Loan có China Steel, Inđonesia có Krakatau Steel, Malaysi có Lion Group… để có sự chủ động nhất định trong ngành công nghiệp thép.
3. Việc để toàn bộ liên hợp là 100% vốn nước ngoài thì Việt Nam chỉ có thể theo dõi sự thực hiện dự án ở 2 lĩnh vực: công nghệ và đánh giá tác động môi trường, nhưng ở cả 2 lĩnh vực này, nếu Việt Nam không trực tiếp tham gia dự án, thì bằng những thông tin nêu trong dự án, hoàn toàn không có đủ cơ sở để giám sát, đấy là chưa nói trình độ cán bộ công nghệ và môi trường của Việt Nam còn kém xa so với trình độ chung, khó có thể thực thi một cách hoàn chỉnh 2 nhiệm vụ giám sát nói trên.
4. Kinh nghiệm theo dõi dự án Tycoon ở Dung Quất hoặc dự án thép không rỉ ở Bình Dương, việc chấp nhận đối tác có phần dễ dãi, dẫn đến dự án kéo dài không thực hiện được, vì đối tác không có khả năng tài chính và công nghệ, cuối cùng sau một số năm phải đổi đối tác, phần còn lại của đối tác lúc ban đầu chỉ còn 5% hay 10% trong liên doanh. Điều này khó có thể khẳng định sẽ không xảy ra đối với những dự án lớn trong tương lai. Hầu hết các dự án lớn sẽ chia ra nhiều giai đoạn, thời gian thực hiện 5, 7 năm nên nếu không có những rằng buộc chặt chẽ, sẽ có đối tác chỉ thực hiện 1 giai đoạn đầu, chiếm 1 diện tích rất lớn trong nhiều năm mà không thực hiện, cản trở việc thực thi của các dự án khác hoặc kéo rất dài thời gian thực hiện dự án.
Những ý kiến sơ bộ nêu trên khi suy nghĩ về những dự án thép lớn, mong được bạn đọc tham khảo.








